- Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập về giáo dục đại học đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì công tác đảm bảo chất lượng, trong đó bao gồm tự đánh giá và cải tiến chất lượng bên trong và kiểm định/ xếp hạng trường đại học từ bên ngoài đang trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của giáo dục đại học Việt Nam. Điều này đòi hỏi mỗi trường đại học phải có một chính sách/ chủ trương rõ ràng về chất lượng nói chung và đảm bảo chất lượng nói riêng để khẳng định uy tín, vị thế và hội nhập với nền giáo dục đại học toàn cầu. Tuy vậy, để một trường đại học thực sự có “chất lượng” thì một trong những đòi hỏi quan trọng nhất là trường đại học phải xây dựng và phát triển một hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong (Internal Quality Assurance-IQA). ĐHQGHN là đơn vị đào tạo đại học đầu tiên trong cả nước thành lập một cơ quan chuyên trách về công tác đảm bảo chất lượng giáo dục từ năm 1995 và cũng là cơ sở đầu tiên ở Việt Nam tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục. Từ năm 2006 đến nay, các trường đại học thành viên và các khoa trực thuộc trong ĐHQGHN đã bắt đầu thành lập các bộ phận/trung tâm thực hiện chức năng, nhiệm vụ về công tác đảm bảo chất lượng cho đơn vị làm nền móng cho việc vận hành hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của từng đơn vị. Bài viết này nhằm mục đích đánh giá hệ thống IQA của các trường đại học thành viên, khoa trực thuộc trong ĐHQGHN, từ đó, xác định những vấn đề còn tồn tại và đề xuất những cải tiến để hoàn thiện hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN phù hợp với tình hình và bối cảnh mới.
2. Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của trường đại học
Chất lượng luôn là mục tiêu trong giáo dục đại học, nhưng một trường đại học có chất lượng thì không phải tự nhiên mà có được. Muốn có chất lượng, trường đại học phải có kế hoạch chiến lược, nguồn lực và tổ chức thực hiện theo một cách thức phù hợp, có tính hệ thống. Đảm bảo chất lượng được xác định như các hệ thống, chính sách, thủ tục, quy trình, hành động và thái độ được xác định từ trước nhằm đạt được, duy trì, giám sát và củng cố chất lượng (Woodhouse, 1998). Đảm bảo chất lượng bao gồm đảm bảo chất lượng bên trong (Internal Quality Assurance: IQA) và đảm bảo chất lượng bên ngoài (External Quality Assurance: EQA).
Đảm bảo chất lượng bên trong (IQA) là một từ được sử dụng khá thông dụng trong nhiều tổ chức giáo dục đại học, nhưng để xây dựng và phát triển một hệ thống IQA có hiệu quả thì nhiều trường đại học vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về các thành tố trong IQA giữa các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục, giữa các nền giáo dục, các tổ chức kiểm định… Nhưng nhìn chung có sự thống nhất cao với nhau rằng IQA là một hệ thống, cấu trúc hướng đến duy trì và cải tiến chất lượng không ngừng. Trong khuôn khổ của chính sách giáo dục và quá trình phát triển của các trường đại học, hệ thống này cho phép các cơ sở đào tạo chứng minh rằng trường đại học biết được chất lượng các chương trình, các thành tựu đạt được so với kỳ vọng và sẵn sàng tiếp thu, đưa vào các yếu tố, phương tiện để đảm bảo chất lượng và cung cấp bằng chứng cho chất lượng đạt được trên thực tế. Hệ thống này được hình thành cũng nhằm quan tâm đến lợi ích và kỳ vọng của các đối tượng có liên quan trong hoạt động của trường, đặc biệt là các đối tượng bên ngoài trường như sinh viên, phụ huynh, nhà tuyển dụng, chính phủ. Do đó, sự phát triển của IQA được mong đợi để đảm bảo sự cân bằng thích hợp giữa các hành động thúc đẩy chất lượng bên trong của trường đại học với các quy trình đảm bảo chất lượng được thúc đẩy từ bên ngoài bởi các cơ quan đánh giá và kiểm định chất lượng học (ANECE, AQU & ACSUC, 2007).
Theo Mạng lưới các trường Đại học Đông Nam Á (ASEAN University Network: AUN) thì IQA là “tổng thể các hệ thống, nguồn lực và thông tin dành cho việc thiết lập, duy trì và cải thiện chất lượng và tiêu chuẩn của hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Đó là một hệ thống mà dưới sự tác động của nó, các nhà quản lý và nhân viên hài lòng với cơ chế kiểm soát đang hoạt động để duy trì và nâng cao chất lượng trong giáo dục đại học” (AUN, 2015).
AUN đã nhận thấy tầm quan trọng của chất lượng giáo dục đại học và nhu cầu phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng để nâng cao chất lượng đào tạo, cải tiến nền giáo dục, tăng cường hoạt động nghiên cứu, phục vụ cộng đồng trong các trường đại học thành viên của AUN. Tổ chức này đã khởi xướng một mô hình IQA gồm các thành tố: công cụ kiểm tra; công cụ đánh giá; quy trình đảm bảo chất lượng cho các hoạt động cụ thể; công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể; và các hoạt động liên tục cải thiện chất lượng.

Hình 2.1. Mô hình của AUN về hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong
Nguồn: AUN (2020)
Đối với các trường Đại học ở Việt Nam, việc xây dựng hệ thống giáo dục bên trong đã và đang được quan tâm triển khai trong những năm gần đây. Trong đó, để hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của một trường đại học vận hành có hiệu quả, cần dựa trên các yếu tố: 1) cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo chất lượng; 2) Quy định và kế hoạch (chính sách) đảm bảo chất lượng; 3) Hệ thống các công cụ, quy trình đảm bảo chất lượng.
Trong thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT) đã ban hành các văn bản liên quan đến việc đảm bảo chất lượng các cơ sở giáo dục. Trong đó, có thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ban hành quy định kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học đã đưa ra bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục, tại mục 2, điều 12, tiêu chuẩn 9 đã đưa ra các tiêu chí về hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong với 6 tiêu chí về cơ cấu, vai trò, trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong được thiết lập để đáp ứng các mục tiêu chiến lược và đảm bảo chất lượng của cơ sở giáo dục; xây dựng kế hoạch chiến lược về đảm bảo chất lượng (bao gồm chiến lược, chính sách, sự tham gia của các bên liên quan, các hoạt động trong đó có việc thúc đẩy công tác đảm bảo chất lượng và tập huấn nâng cao năng lực) để đáp ứng các mục tiêu chiến lược và đảm bảo chất lượng của cơ sở giáo dục; kế hoạch chiến lược về đảm bảo chất lượng được quán triệt và chuyển tải thành các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn để triển khai thực hiện; tiếp theo là về hệ thống lưu trữ văn bản, rà soát, phổ biến các chính sách, hệ thống, quy trình và thủ tục đảm bảo chất lượng được triển khai; các chỉ số thực hện chính và các chỉ tiêu phấn đấu chính được thiết lập để đo lường kết quả công tác đảm bảo chất lượng của cơ sở giáo dục; cuối cùng là quy trình lập kế hoạch, các chỉ số thực hiện chính và các chỉ tiêu phấn đấu chính được cải tiến để đáp ứng các mục tiêu chiến lược và đảm bảo chất lượng của cơ sở giáo dục (Bộ GD&ĐT, 2017). ĐHQGHN đã ban hành chiến lược đảm bảo chất lượng giáo dục trong giai đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030 đã xác định các hoạt động cần thực hiện để nâng cao chất lượng đào tạo, và đưa ĐHQGHN tiếp cận với chuẩn ASEAN và quốc tế, trong đó một trong những nội dung được đề cập đầu tiên là việc hoàn thiện hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN và các đơn vị thành viên (ĐHQGHN, 2012). Điều này cho thấy, việc xây dựng hệ thống giáo dục bên trong đã và đang được các cơ sở giáo dục đại học quan tâm triển khai.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mẫu khảo sát
Nghiên cứu được thực hiện khảo sát trên 12 đơn vị thành viên và trực thuộc bao gồm: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Ngoại ngữ, Trường Đại học Công nghệ, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Giáo dục, Trường Đại học Việt Nhật, Trường Đại học Y Dược, Khoa Luật, Khoa Quản trị Kinh doanh, Khoa Quốc tế, Khoa Các Khoa học liên ngành tại ĐHQGHN.
3.2. Phương pháp thu thập thông tin
Phân tích, tổng hợp tài liệu nghiên cứu, tài liệu tham khảo về đảm bảo chất lượng, về hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong trên thế giới và Việt Nam.
Dữ liệu trong nghiên cứu này được tổng hợp thông qua phân tích dữ liệu tự đánh giá của các trường đại học thành viên và các khoa trực thuộc ĐHQGHN.
Phiếu khảo sát về hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của các đơn vị thuộc ĐHQGHN được chia làm 3 nội dung chính. Phần thứ nhất là các đánh giá về cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo chất lượng của đơn vị; Phần thứ 2 là các khảo sát về quy định và kế hoạch đảm bảo chất lượng của đơn vị; và Phần thứ 3 là các khảo sát về công cụ cũng như các quy trình đảm bảo chất lượng của các đơn vị. Cụ thể là: các công cụ giám sát, công cụ đánh giá, các quy trình đảm bảo chất lượng và cuối cùng là các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể.
3.3. Phương pháp phân tích thông tin
Dữ liệu thu được được phân tích thông qua phần mềm Excel và SPSS.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Quá trình phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN
ĐHQGHN là đơn vị đào tạo đại học đầu tiên trong cả nước thành lập một cơ quan chuyên trách về công tác ĐBCLGD từ năm 1995 (Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và Nghiên cứu phát triển giáo dục và nay là Viện ĐBCLGD) và cũng là cơ sở đầu tiên ở Việt Nam tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề đảm bảo chất lượng và KĐCLGD. Viện ĐBCLGD đã phát huy được vai trò của ĐHQGHN trong chỉ đạo và điều hành công tác đảm bảo chất lượng nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và dịch vụ xã hội của các trường đại học thành viên/các đơn vị trực thuộc trong ĐHQGHN.
Kể từ năm 2006, các trường đại học thành viên và các khoa trực thuộc trong ĐHQGHN đã bắt đầu thành lập các bộ phận/trung tâm thực hiện chức năng, nhiệm vụ về công tác đảm bảo chất lượng cho đơn vị. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã thành lập Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo năm 2006. Tiếp đến là Trường Đại học Ngoại ngữ đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu giáo dục ngoại ngữ và Đảm bảo chất lượng năm 2008. Tiếp theo, ba trường đại học thành viên khác đã thành lập bộ phận/trung tâm về Đảm bảo chất lượng là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Kinh tế và Trường Đại học Giáo dục năm 2009. Các năm tiếp theo các trường đại học thành viên và khoa trực thuộc cũng như các đơn vị đào tạo khác trong ĐHQGHN cũng đã thành lập bộ phận/trung tâm hoặc phân công cán bộ phụ trách công tác đảm bảo chất lượng của đơn vị (ĐHQGHN, 2016).
ĐHQGHN đã phát huy được vai trò tiên phong hàng đầu trong tư vấn, hỗ trợ ngành giáo dục nói chung và các đại học, các trường ĐH trên cả nước trong công tác đảm bảo chất lượng giáo dục và KĐCLGD. Không chỉ tích cực trong các hoạt động ĐBCL giáo dục trong nước, ĐHQGHN còn là ĐH đầu tiên ở Việt Nam đã nói lên tiếng nói về công tác đảm bảo chất lượng và đánh giá chất lượng đào tạo của các ĐH Việt Nam trong Mạng lưới các tổ chức ĐBCL giáo dục đại học quốc tế (International Network for Quality Assurance Agencies for Higher Education – INQAAHE). Việc tham gia và trở thành thành viên trong các tổ chức đảm bảo chất lượng khu vực và quốc tế (như thành viên của INQAAHE, thành viên của các tổ chức Mạng lưới Đảm bảo chất lượng của các trường ĐH hàng đầu của Đông Nam Á (ASEAN University Network- Quality Assurance, viết tắt là AUN-QA), thành viên Việt Nam trong Mạng lưới chất lượng các nước Châu Á Thái Bình Dương (Asian Pacific Quality Network, viết tắt là APQN)) đã giúp ĐHQGHN có thêm nhiều kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện hệ thống ĐBCL của ĐHQGHN.
4.2. Cơ cấu tổ chức đảm bảo chất lượng trong ĐHQGHN
Hệ thống đảm bảo chất lượng trong ĐHQGHN được xây dựng theo mô hình 2 cấp: cấp ĐHQGHN và cấp cơ sở:
– Cấp ĐHQGHN có Hội đồng đảm bảo chất lượng ĐHQGHN gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các Ủy viên. Hội đồng có từ 15 đến 27 thành viên, gồm có thành phần đương nhiên (đại diện Ban Giám đốc; Viện trưởng Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục (Viện ĐBCLGD); Hiệu trưởng các trường đại học thành viên; Chánh Văn phòng ĐHQGHN và các Trưởng ban một số ban chức năng của ĐHQGHN) và thành phần mời (các giảng viên, nhà khoa học, các chuyên gia về giáo dục đại học trong hoặc ngoài ĐHQGHN và đại diện các nhà tuyển dụng). Chủ tịch Hội đồng đảm bảo chất lượng ĐHQGHN là đại diện Ban Giám đốc ĐHQGHN hoặc một nhà giáo dục có uy tín cao trong nước và quốc tế; các Phó chủ tịch Hội đồng là đại diện Ban Giám đốc ĐHQGHN và Viện trưởng Viện ĐBCLGD; một đại diện Ban Giám đốc ĐHQGHN là Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng. Thư ký Hội đồng là Phó Viện trưởng Viện ĐBCLGD hoặc Trưởng phòng Nghiên cứu và Quản lý đảm bảo chất lượng của Viện ĐBCLGD.
– Cấp cơ sở bao gồm Hội đồng Đảm bảo chất lượng cơ sở với Chủ tịch Hội đồng là Hiệu Trưởng/Chủ nhiệm khoa trực thuộc, ủy viên là Trưởng hoặc Phó các đơn vị cấp dưới, Ban Thư ký Hội đồng là Trung tâm/Bộ phận Đảm bảo chất lượng của Trường/Khoa.
Như vậy, ngoài Viện ĐBCLGD là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Ban Giám đốc ĐHQGHN về công tác đảm bảo chất lượng, các đơn vị thành viên và trực thuộc ĐHQGHN cũng thành lập các trung tâm/bộ phận đảm bảo chất lượng của đơn vị mình để giúp việc cho lãnh đạo đơn vị triển khai các hoạt động đảm bảo chất lượng tại các đơn vị. Cho đến nay, hệ thống đảm bảo chất lượng trong ĐHQGHN đã tương đối hoàn thiện với 11 trung tâm/bộ phận đảm bảo chất lượng được thành lập tại 08 trường đại học thành viên và 03 khoa trực thuộc, 01 khoa cử cán bộ phụ trách về công tác đảm bảo chất lượng. Tổng số cán bộ chuyên trách làm công tác đảm bảo chất lượng tại ĐHQGHN hiện nay là trên 50 người, trong đó có nhiều cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành Đo lường đánh giá trong giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động đảm bảo chất lượng tại ĐHQGHN.

Hình 4.1. Cơ cấu tổ chức ĐBCL trong ĐHQGHN
4.3. Đánh giá hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN
Nhằm làm rõ thực trạng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN, nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát thông qua bảng hỏi đối với 8 trường đại học thành viên và 4 khoa trực thuộc ĐHQGHN về: 1) cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo chất lượng; 2) Quy định và kế hoạch (chính sách) đảm bảo chất lượng; 3) Hệ thống các công cụ, quy trình đảm bảo chất lượng. Kết quả thu được như sau:
4.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo chất lượng của đơn vị
Như đã đề cập ở trên, ĐHQGHN là đơn vị đào tạo đại học đầu tiên trong cả nước thành lập một cơ quan chuyên trách về công tác ĐBCLGD từ năm 1995. Từ năm 2006, các trường đại học thành viên và các khoa trực thuộc trong ĐHQGHN đã bắt đầu thành lập các bộ phận/trung tâm thực hiện chức năng, nhiệm vụ về công tác đảm bảo chất lượng cho đơn vị. Đến nay, ĐHQGHN đã xây dựng được hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong với cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo chất lượng của các trường đại học thành viên, khoa trực thuộc tương đối hoàn chỉnh. Có 12/12 đơn vị thành viên, trực thuộc ĐHQGHN đã thành lập bộ phận/trung tâm hoặc phân công cán bộ phụ trách công tác đảm bảo chất lượng của đơn vị, đồng thời, chức năng nhiệm vụ của đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng cũng được xác định rõ ràng. Hằng năm, đội ngũ cán bộ làm công tác ĐBCL được bồi dưỡng năng lực, chuyên môn nghiệp vụ.
Bảng 4.1. Thực trạng cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo chất lượng của đơn vị

Tuy nhiên, khi tự đánh giá về mức độ đáp ứng của cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo chất lượng thì một số đơn vị đánh giá chưa đáp ứng tốt nhu cầu của đơn vị. Việc “thành lập các đơn vị chuyên trách hoặc cử cán bộ phụ trách về công tác đảm bảo chất lượng” và “đội ngũ làm công tác đảm bảo chất lượng có chuyên môn, nghiệp vụ hoặc được đào tạo về đo lường đánh giá/ có chứng chỉ về đảm bảo chất lượng ” có 4/12 đơn vị tự đánh giá chỉ đáp ứng được yêu cầu này, điều này là do một số đơn vị chỉ có 1 cán bộ phụ trách hầu hết công việc về hoạt động đảm bảo chất lượng, đồng thời còn kiêm nhiệm thêm các mảng hoạt động khác của đơn vị. Bên cạnh đó, 2/12 đơn vị tự đánh giá đội ngũ làm công tác đảm bảo chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu của đơn vị có thể là về mặt chuyên môn nghiệp vụ hoặc được đào tạo về đo lường đánh giá hoặc có chứng chỉ về ĐBCL. 1/12 đơn vị tự đánh giá đơn vị của mình chưa xác định được rõ ràng chức năng, nhiệm vụ. 8/12 đơn vị tự đánh giá mức độ đáp ứng của công tác bồi dưỡng năng lực, chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên chỉ dừng lại ở mức đáp ứng và 1/12 đơn vị tự đánh giá chưa đáp ứng được nhu cầu này.
4.3.2. Về Quy định và kế hoạch đảm bảo chất lượng của đơn vị
Cùng với việc xây dựng cơ cấu bộ máy đảm bảo chất lượng, các đơn vị thành viên, trực thuộc ĐHQGHN cũng đã quan tâm xây dựng các quy định và kế hoạch đảm bảo chất lượng của đơn vị (bảng 4.2).
Bảng 4.2. Thực trạng quy định và kế hoạch đảm bảo chất lượng của đơn vị

Qua bảng 4.2 có thể nhận thấy, các đơn vị đều tự đánh giá đơn vị của mình đã thực hiện được các quy định và kế hoạch đảm bảo chất lượng của đơn vị. Trong đó các nội dung như: “Quy định về vai trò, trách nhiệm của đơn vị đảm bảo chất lượng, Khoa, phòng ban về công tác đảm bảo chất lượng”, “Quy định về thu thập thông tin phản hồi của các bên liên quan để cải tiến chất lượng” được các đơn vị tự đánh giá thực hiện được tốt nhất (12/12 đơn vị). Tuy nhiên, một số nội dung chưa được các đơn vị thực hiện, đặc biệt là “Quy định/tiêu chí về thi đua khen thưởng trong công tác đảm bảo chất lượng” (7/12 đơn vị chưa thực hiện); “Quy định về công tác cải tiến chất lượng/ cải tiến chất lượng hậu kiểm định” (4/12 đơn vị chưa thực hiện); “Văn bản về công tác đảm bảo chất lượng được định kỳ rà soát, cải tiến” (4/12 đơn vị chưa thực hiện).
Về mức độ đáp ứng. Đa số các đơn vị đều tự đánh giá các quy định và kế hoạch đảm bảo chất lượng là đáp ứng với nhu cầu của đơn vị (số đơn vị tự đánh giá ở mức độ đáp ứng và đáp ứng tốt từ 5-12 đơn vị). Trong đó, được đánh giá cao nhất là “hoạt động thu thập thông tin phản hồi các bên liên quan để cải tiến chất lượng”. Có thể thấy, đây là hoạt động mà các đơn vị thực hiện khá tốt khi hầu hết các đơn vị đều có hướng dẫn, hoặc quy định riêng của đơn vị mình về hoạt động đánh giá này. Một số hoạt động khác như: công tác cải tiến chất lượng hậu kiểm định thì các đơn vị tự đánh giá chưa đáp ứng được so với yêu cầu thực tế (4/12 đơn vị tự đánh giá chưa đáp ứng nhu cầu). Đặc biệt là “Quy định/tiêu chí về thi đua khen thưởng trong công tác đảm bảo chất lượng” (có tới 7/12 đơn vị tự đánh giá là chưa đáp ứng nhu cầu). Đây là hoạt động mà nhiều đơn vị tự đánh giá đáp ứng được yêu cầu ở mức thấp khi mà hiện nay nhiều đơn vị chưa đưa các tiêu chí về thi đua khen thưởng trong công tác đảm bảo chất lượng để chấm điểm thi đua hằng năm hoặc khen thưởng đối với cá nhân có thành tích tốt trong công tác đảm bảo chất lượng. Một nội dung khác cũng được các đơn vị đánh giá mức độ đáp ứng chưa cao là việc “cải tiến và định kỳ rà soát các văn bản về công tác đảm bảo chất lượng” (5/12 đơn vị tự đánh giá chưa đáp ứng).
4.3.3. Hệ thống các công cụ, quy trình đảm bảo chất lượng của đơn vị
– Về công cụ giám sát
Hầu hết các đơn vị thành viên và trực thuộc ĐHQGHN đều đã xây dựng và thực hiện được các công cụ giám sát hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong (bảng 4.3). Đồng thời, việc thực hiện các công cụ giám sát đảm bảo chất lượng cũng được các đơn vị duy trì và thực hiện với tần suất khá thường xuyên (thường theo học kỳ hoặc năm học).
Bảng 4.3. Thực trạng thực hiện các công cụ giám sát hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong

Có thể nhận thấy, các công cụ giám sát là nội dung được các đơn vị đánh giá thực hiện đầy đủ, áp dụng thường xuyên nhất trong số hệ thống các công cụ, quy trình đảm bảo chất lượng của đơn vị (11/12 đơn vị đã xây dựng được hệ thống công cụ giám sát và thực hiện khá thường xuyên). Tuy vậy, có 1/12 đơn vị vẫn chưa xây dựng được các công cụ giám sát hoạt động đảm bảo chất lượng và cần hoàn thiện trong thời gian tới. Đặc biệt, một số đơn vị đã xây dựng được công cụ giám sát hoạt động đảm bảo chất lượng nhưng lại chưa sử dụng. Điều này có thể nhận thấy thông qua tần suất áp dụng (chỉ có khoảng 9/12 đơn vị áp dụng). Một điều nữa có thể nhận thấy là ngoài việc thực hiện “Giám sát kết quả học tập của người học” thì các đơn vị thường thực hiện các công cụ giám sát theo tần suất năm học, việc thực hiện như vậy có thể khiến các đơn vị khó phân tích được hiệu quả giảng dạy, học tập và cũng có thể khiến các hoạt động cải tiến chất lượng đào tạo giảm đi tính hiệu quả.
Về mức độ đáp ứng của các công cụ giám sát đảm bảo chất lượng (bảng 4.4.). Hầu hết các đơn vị đều đánh giá các công cụ giám sát hoạt động đảm bảo chất lượng đáp ứng và đáp ứng tốt nhu cầu của đơn vị (11/12 đơn vị tự đánh giá ở mức độ đáp ứng và đáp ứng tốt). Tuy đánh giá các công cụ giám sát đảm bảo chất lượng đã đáp ứng được nhu cầu của đơn vị, nhưng một số đơn vị cũng đã chú ý đến công tác cải tiến hệ thống công cụ giám sát theo học kỳ hoặc theo năm học. Nhiều đơn vị đã cải tiến các mẫu phiếu khảo sát theo các mẫu khảo sát trực tuyến để các bên liên quan có thể dễ dàng tiếp cận và tiết kiệm thời gian, chi phí khảo sát.
Bảng 4.4. Thực trạng mức độ đáp ứng và cải tiến các công cụ giám sát hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong

– Về công cụ đánh giá
Đa số các đơn vị đã xây dựng và thực hiện các công cụ đánh giá hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong (bảng 4.5). Đặc biệt là xây dựng các công cụ đánh giá về khảo sát người học về học phần, quy đị̣nh, hướng dẫn về rà soát, điều chỉnh, cập nhật CTĐT, về đánh giá giảng viên… (12/12 đơn vị đã thực hiện).
Bảng 4.5. Thực trạng thực hiện các công cụ đánh giá hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong

Tuy nhiên, chỉ có 6/12 đơn vị có và thực hiện “Quy định và hướng dẫn xây dựng rubric, barem chấm điểm cho các bài thi, kiểm tra”. Các Rubric và barem chấm điểm là các công cụ rất quan trọng với hoạt động kiểm tra, đánh giá sinh viên và thường rất được các đánh giá viên quan tâm khi tổ chức đánh giá một CTĐT. Có thể thấy rằng các mẫu khảo sát, đánh giá các bên liên quan đang được các đơn vị thực hiện khá tốt.
Về tần suất thực hiện, các công cụ đánh giá được các đơn vị sử dụng khá thường xuyên theo học kỳ hoặc năm học. Tuy vậy, có một số công cụ ít được đơn vị sử dụng thường xuyên, đặc biệt là các công cụ khảo sát phản hồi của các bên liên quan về dịch vụ phục vụ cộng đồng, xã hội của nhà trường, hoặc một số công cụ ít được sử dụng vì mang tính thời điểm như “Quy đị̣nh, hướng dẫn về rà soát, điều chỉnh, cập nhật CTĐT”.
Mức độ đáp ứng của các công cụ và tần suất cải tiến của từng công cụ đánh giá được thể hiện ở (bảng 4.6).
Bảng 4.6. Thực trạng mức độ đáp ứng và cải tiến các công cụ đánh giá hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong

Về mức độ đáp ứng. Từ thực trạng việc thực hiện các công cụ chúng ta có thể thấy được rằng “Quy định và hướng dẫn xây dựng rubric, barem chấm điểm cho các bài thi, kiểm tra” là công cụ mà các đơn vị đánh giá mức độ đáp ứng là thấp nhất khi có đến 5/12 đơn vị đánh giá chưa đáp ứng được nội dung này so với nhu cầu thực tế. Ngoài ra, với các nội dung được khảo sát khác thì chúng ta có thể thấy được các đơn vị đều đánh giá mức độ đáp ứng của đơn vị mình là tốt khi mà với 9 công cụ được hỏi còn lại thì nhiều nhất chỉ có 2/12 đơn vị là đánh giá mình chưa đáp ứng được nội dung đó so với nhu cầu thực tế là 3 công cụ: “Quy định và hướng dẫn về xây dựng đề thi, ngân hàng câu hỏi”; “Quy đị̣nh, hướng dẫn về rà soát, điều chỉnh, cập nhật học phần”; “Mẫu phiếu khảo sát phản hồi của các bên liên quan về dịch vụ phục vụ cộng đồng, xã hội của nhà trường”.
Về tần suất cải tiến, chúng ta có thể nhận thấy rằng với các công cụ đánh giá thì việc cải tiến thường được thực hiện theo năm học hoặc thực hiện khi có nhu cầu, nếu chỉ tính việc cải tiến theo học kỳ thì chỉ có nhiều nhất 1/12 đơn vị thực hiện việc cải thiện công cụ đánh giá theo học kỳ, còn lại hoặc động cải thiện thường sẽ được thực hiện theo năm học hoặc thực hiện khi các đơn vị có nhu cầu. Tổng thế lại việc tự đánh giá của các đơn vị về các công cụ đánh giá thì chúng ta có thể thấy được sự thiếu hụt về nội dung xây dựng rubric và barem chấm điểm các bài thi và kiểm tra của các CTĐT, còn lại với các nội dung khác thì sự ổn định được thể hiện ra khi mà sự thay đổi, cải tiến chỉ diễn ra khi các đơn vị có nhu cầu hoặc theo giai đoạn 1 năm học.
– Về quy trình đảm bảo chất lượng
Nhìn chung các quy trình về đảm bảo chất lượng đã được đơn vị thực hiện tương đối đầy đủ. Tuy nhiên ở các quy trình cụ thể thì mức độ thực hiện và tần suất áp dụng lại có sự khác biệt khá rõ rệt (bảng 4.7).
Bảng 4.7. Thực trạng thực hiện quy trình đảm bảo chất lượng

Về mức độ thực hiện. Các quy trình như: quy trình quản lý về cơ sở vật chất; về tuyển dụng đội ngũ cán bộ, giảng viên; bảo mật và xử lý kết quả học tập của người học; thu nhận phản hồi các góp ý, kiến nghị của người học về kết quả học tập; xử lí phản hồi kết quả khảo sát các bên liên quan về chất lượng đào tạo đã được đơn vị thực hiện khá đầy đủ (10/12 đơn vị). Tuy nhiên, một số đơn vị còn chưa xây dựng đầy đủ các quy trình đảm bảo chất lượng, đặc biệt là quy trình xử lí phản hồi kết quả khảo sát các bên liên quan về chất lượng nghiên cứu khoa học (6/12 đơn vị) và quy trình xử lí phản hồi kết quả khảo sát các bên liên quan về chất lượng cơ sở vật chất (3/12 đơn vị).
Các quy trình về đảm bảo chất lượng được đơn vị sử dụng khá thường xuyên, chủ yếu thường áp dụng theo học kì hoặc theo năm học. Tuy nhiên, có một số quy trình đảm bảo chất lượng còn được đơn vị ít thực hiện. VD: Quy trình xử lí phản hồi kết quả khảo sát các bên liên quan về chất lượng nghiên cứu khoa học (chỉ có 4 đơn vị thực hiện).
Mức độ đáp ứng và cải tiến các quy trình đảm bảo chất lượng được tổng hợp ở bảng 4.8, cụ thể như sau:
Bảng 4.8. Thực trạng mức độ đáp ứng và cải tiến các quy trình đảm bảo chất lượng

Về mức độ đáp ứng của các quy trình đảm bảo chất lượng của các đơn vị. Quy trình về xử lí phản hồi kết quả khảo sát các bên liên quan về chất lượng đào tạo được đánh giá là ít đáp ứng nhu cầu của đơn vị (7/12 đơn vị đánh giá là chưa đáp ứng nhu cầu của đơn vị), tiếp theo là quy trình xử lí phản hồi kết quả khảo sát các bên liên quan về chất lượng cơ sở vật chất (3/12 đơn vị đánh giá là chưa đáp ứng nhu cầu). Trong khi quy trình tuyển dụng cán bộ, giảng viên và quy trình quản lý cơ sở vật chất được các đơn vị đánh giá là đáp ứng tốt nhất nhu cầu của đơn vị (mức độ đáp ứng và đáp ứng tốt của 2 quy trình này lần lượt là 10/12 và 11/12 đơn vị).
Về công tác cải tiến quy trình đảm bảo chất lượng của các đơn vị. Nhìn chung, tần suất cải tiến chất lượng các quy trình đảm bảo chất lượng ở các đơn vị là hạn chế. Nhiều đơn vị chưa quan tâm đến công tác cải tiến chất lượng các quy trình đảm bảo chất lượng, đặc biệt có thể kể đến quy trình về xử lí phản hồi kết quả khảo sát các bên liên quan về chất lượng nghiên cứu khoa học (7/12 đơn vị chưa thực hiện cải tiến chất lượng). Tần suất cải tiến chất lượng quy trình đảm bảo chất lượng theo học kì, năm học đều được các đơn vị thực hiện rất hạn chế (phần lớn chỉ có khoảng 2-5 đơn vị thực hiện cải tiến chất lượng các quy trình đảm bảo chất lượng).
– Về công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể
Các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể đã được các đơn vị thực hiện với tần suất khá thường xuyên (bảng 4.9).
Bảng 4.9. Thực trạng thực hiện các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể

Trong đó, báo cáo tổng kết năm học được đánh giá là thực hiện thường xuyên nhất (12/12 đơn vị) và tần suất thực hiện thường xuyên nhất theo năm học (12/12 đơn vị). Việc xây dựng kế hoạch đảm bảo chất lượng hằng năm cũng được đơn vị thực hiện và tần suất thực hiện thường xuyên (10/12 đơn vị). Tuy nhiên, tổng thể có thể nhận thấy, các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể còn khá nhiều đơn vị chưa thực hiện bao giờ (phần lớn có từ 2-3 đơn vị chưa từng thực hiện các công cụ đảm bảo chất lượng); một số công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể được thực hiện rất hạn chế. Đặc biệt, “Báo cáo phân tích, so sánh kết quả hoạt động của đơn vị qua các năm” được các đơn vị ít thực hiện (6/12 đơn vị chưa thực hiện bao giờ), đồng thời, đây cũng là nội dung có tần suất áp dụng ít nhất (5/12 đơn vị áp dụng theo học kỳ và năm học) ; 5/12 đơn vị chưa có sổ tay đảm bảo chất lượng…
Mức độ đáp ứng và cải tiến các các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể được tổng hợp ở bảng sau:
Bảng 4.10. Thực trạng mức độ đáp ứng và cải tiến các các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể

Về mức mức độ đáp ứng của các các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể. Nhiều đơn vị đánh giá mức độ đáp ứng của các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể ở mức đáp ứng và đáp ứng tốt. Trong đó, báo cáo tổng kết năm học được đánh giá là đáp ứng tốt nhất nhu cầu của đơn vị (11/12 đơn vị), tiếp theo là báo cáo ba công khai và kế hoạch cải tiến chất lượng các CTĐT (9/12 đơn vị đánh giá là đáp ứng và đáp ứng tốt so với nhu cầu của đơn vị). Tuy nhiên, có khá nhiều đơn vị đánh giá các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể chưa đáp ứng nhu cầu của đơn vị. Trừ “báo cáo tổng kết năm học”, tất cả các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể còn lại đều có khá nhiều đơn vị đánh giá chưa đáp ứng được nhu cầu (phổ biến ở mức 2-5 đơn vị), trong đó, sổ tay đảm bảo chất lượng được đánh giá là ít đáp ứng nhu cầu của đơn vị nhất.
Về mức độ cải tiến các các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể. Tỉ lệ các đơn vị thực hiện cải tiến các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể ở mức chưa cao (bảng 4.10). Chỉ một số đơn vị thực hiện cải tiến các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể (phần lớn chỉ có khoảng 5-6 đơn vị thực hiện cải tiến chất lượng). Trong đó, sổ tay đảm bảo chất lượng được ít đơn vị thực hiện cải tiến chất lượng nhất (5/12 đơn vị).
Tóm lại, kết quả khảo sát thực trạng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN cho thấy, về điểm mạnh, các đơn vị đã xây dựng được hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong với cơ cấu tổ chức bộ máy tương đối hoàn chỉnh. các đơn vị cũng đã xây dựng được các quy định cơ bản và kế hoạch đảm bảo chất lượng nhằm vận hành hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong tương đối bài bản. Đồng thời, đã bước đầu xây dựng và vận hành hệ thống các công cụ, quy trình đảm bảo chất lượng theo tiếp cận của khu vực (mô hình đảm bảo chất lượng bên trong của AUN-QA). Đặc biệt là các công cụ giám sát được thực hiện khá bài bản và với tần suất khá thường xuyên.
Tuy nhiên, các đơn vị cũng cần phải có những cải tiến nhất định để nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế trong tình hình và giai đoạn hội nhập như hiện nay. Đặc biệt là về việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên về đảm bảo chất lượng; cải thiện các hoạt động liên quan đến công tác hậu kiểm định; công tác thi đua khen thưởng; xây dựng các quy định, hướng dẫn về rubric hay barem chấm điểm; và cả việc đối sánh kết quả hoạt động của đơn vị…những điều này sẽ giúp tạo được một nền tảng vững chắc cho hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong và cũng là tạo động lực cho việc phát triển của hoạt động đào tạo tại ĐHQGHN.
5.Kết luận
Thông qua số liệu phân tích về hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của các đơn vị thành viên, trực thuộc ĐHQGHN chúng ta có thể thấy được rằng, về tổng thể hiện nay ĐHQGHN đang có một hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong khá hoàn thiện và hoạt động tương đối tốt. Về cơ bản tất cả các đơn vị đều đã đáp ứng được yêu cầu mà một hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong cần có về các công cụ giám sát người học và kết quả học tập, nghiên cứu của người học, về các công cụ đánh giá người học cũng như hoạt động nghiên cứu và dịch vụ của đơn vị, các quy trình đảm bảo chất lượng cũng như các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh nêu trên thì hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định.
Về cơ cấu tổ chức bộ, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đảm bảo chất lượng ở các đơn vị có sự khác biệt khá lớn. Nhiều đơn vị có số lượng cán bộ làm công tác đảm bảo chất lượng rất hạn chế, chỉ từ 1 đến 2 người.
Một số quy định, kế hoạch đảm bảo chất lượng chưa được đơn vị quan tâm đúng mức trong quá trình triển khai thực hiện. Nhất là việc xây dựng các quy định/ tiêu chí về thi đua khen thưởng trong công tác đảm bảo chất lượng; các quy định về công tác cải tiến chất lượng/cải tiến chất lượng hậu kiểm định;.
Về hệ thống các công cụ, quy trình đảm bảo chất lượng của đơn vị. Liên quan đến hệ thống công cụ giám sát, dù đã có hệ thống công cụ để sử dụng nhưng một số đơn vị lại chưa áp dụng/ sử dụng hệ thống công cụ này trong quá trình vận hành công tác đảm bảo chất lượng của đơn vị. Điều này vừa khiến đơn vị thiếu tính chất giám sát trong quá trình đảm bảo chất lượng, vừa gây ra sự lãng phí. Về hệ thống công cụ đánh giá thì nhiều đơn vị chưa quan tâm xây dựng các quy định/ hướng dẫn về xây dựng rubric, baren chấm điểm cho các bài thi, bài kiểm tra. Về quy trình đảm bảo chất lượng: nhiều đơn vị lúng túng trong việc xử lí kết quả phản hồi của các bên liên quan về chất lượng nghiên cứu khoa học, về cơ sở vật chất. Về các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể: đây là nội dung mà các đơn vị tự đánh giá mức độ thực hiện của mình là rất thấp, nhất là với báo cáo phân tích, so sánh kết quả hoạt động của đơn vị.
6. Giải pháp phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong tại ĐHQGHN
Từ kết quả đánh giá hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của ĐHQGHN, nhóm nghiên cứu xin đề xuất một số giải pháp phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong tại ĐHQGHN như sau:
Một là, hoàn thiện cơ cấu tổ chức hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của các đơn vị thành viên, trực thuộc. Muốn hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của một cơ sở giáo dục đại học vận hành hiệu quả, trước hết cơ sở giáo dục đại học đó cần xây dựng một đơn vị/bộ phận chuyên trách về đảm bảo chất lượng. Vì vậy, các đơn vị thành viên cần thành lập đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng và có cơ cấu tổ chức phù hợp, chức năng được quy định rõ ràng. Bên cạnh đó, căn cứ vào quy mô, nhu cầu của đơn vị, cần tuyển dụng đủ số lượng, chất lượng đội ngũ làm công tác đảm bảo chất lượng phù hợp, được đào tạo bài bản/ bồi dưỡng về đảm bảo chất lượng/đo lường đánh giá giáo dục (vì đây chính là nhân tố chính, và đóng vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển của một hệ thống đảm bảo chất lượng). Trong quá trình triển khai thực hiện các hoạt động đảm bảo chất lượng của đơn vị, cần định kì tổ chức các khóa tập huấn nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác đảm bảo chất lượng.
Hai là, xây dựng/cập nhật các quy định (chính sách) và kế hoạch đảm bảo chất lượng cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn/ chiến lược phát triển của ĐHQGHN và của từng đơn vị. Cụ thể như sau:
– Xây dựng, ban hành văn bản tuyên bố về chính sách chất lượng chung của ĐHQGHN, đồng thời, công bố công khai chính sách về chất lượng và đảm bảo chất lượng trên website và phổ biến đến các bên liên quan. Các đơn vị thành viên, trực thuộc cũng cần xây dựng chính sách chất lượng riêng cho đơn vị mình trên cơ sở chính sách chất lượng chung của ĐHQGHN và chiến lược phát triển của đơn vị.
– Từng bước xây dựng và hình thành văn hóa chất lượng tại đơn vị. Thực hiện “văn hóa dateline”, “văn hóa báo cáo” theo đúng kế hoạch, đúng chức năng, nhiệm vụ của đơn vị mình.
– Xây dựng các tiêu chí về thi đua khen thưởng trong công tác đảm bảo chất lượng thành các tiêu chí thi đua khen thưởng đối với cá nhân, tập thể hằng năm.
– Xây dựng Sổ tay đảm bảo chất lượng/ sách chuyên khảo về công tác đảm bảo chất lượng để sử dụng trong toàn ĐHQGHN.
– Thường xuyên kiểm tra, rà soát, cập nhật và cải tiến các quy định/ chính sách về công tác đảm bảo chất lượng của ĐHQGHN và của từng đơn vị đề phù hợp với tình hình, bối cảnh mới.
Ba là, xây dựng hệ thống các công cụ, quy trình đảm bảo chất lượng phù hợp với đặc thù và chiến lược phát triển của ĐHQGHN và của đơn vị. Đối với các công cụ giám sát: ĐHQGHN cần định kỳ rà soát và cập nhật các công cụ giám sát để phù hợp với bối cảnh mới. Các đơn vị sử dụng các công cụ giám sát của ĐHQGHN, đồng thời, căn cứ vào kết quả giám sát cần định kỳ điều chỉnh chương trình đào tạo để phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động; Đối với các công cụ đánh giá: ĐHQGHN cần xây dựng các quy định và hướng dẫn cụ thể về xây dựng đề thi, xây dựng rubric/ barem chấm điểm và dùng chung cho các đơn vị thành viên, trực thuộc; Về quy trình đảm bảo chất lượng: xây dựng hướng dẫn cụ thể về việc xử lí kết quả phản hồi của các bên liên quan nhằm phục vụ cải tiến chất lượng chương trình đào tạo (đặc biệt là về chất lượng nghiên cứu khoa học, về cơ sở vật chất; Về các công cụ đảm bảo chất lượng cụ thể: Các đơn vị cần thực hiện nghiêm túc công tác hậu kiểm định theo các khuyến nghị của các chuyên gia đánh giá. Việc kiểm định chất lượng một chương trình đào tạo hay một cơ sở đào tạo sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi đơn vị đó đã nhận thức được điểm mạnh và điểm hạn chế của đơn vị mình từ đó thực hiện các công tác cải tiến, điều này nếu thực hiện được sẽ được nhận thức như một bước cải tiến của đơn vị, nếu hoạt động hậu kiểm không được thực hiện tốt thì công tác kiểm định chất lượng sẽ mất đi tính hiệu quả của nó, từ đó sẽ tạo ra những sự lãng phí nguồn lực không chỉ cho chính đơn vị đó mà còn là ĐHQGHN cũng như sự phát triển của xã hội. Các đơn vị cũng cần thực hiện các hoạt động đối sánh một cách thường xuyên và đa dạng hơn, việc đối sánh sẽ đem đến cho các đơn vị những minh chứng và ý tưởng rất tốt để cải tiến chất lượng đào tạo cũng như chất lượng dịch vụ của đơn vị, nếu bỏ qua hay xem nhẹ công tác này thì các đơn vị sẽ rất khó để có thể đưa chất lượng đào tạo của mình đi lên, và sẽ càng khó nếu muốn quốc tế hóa hoạt động đào tạo của mình. Đồng thời, định kì rà soát/ đánh giá và cải tiến chất lượng hệ thống các quy định, quy trình, công cụ đảm bảo chất lượng của đơn vị để phù hợp với tình hình và bối cảnh mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
ANECE, QAU và ACSUC (2007), Guide to the design of internal quality assurance systems in higher education, www.aqu.cat/doc/doc_36152566_1.pdf
ASEAN University Network (2020) Guide to AUN-QA Assessment at Programme Level Version 4.0
AUN (2016) Guide to AUN-QA Assessment at Institutional Level Version 2.0 http://www.aunsec.org/pdf/Guide%20to%20AUNQA%20Assessment%20at%20Institutional%20Level%20Version2.0_Final_for_publishing_2016%20(1).pdf
AUN (2015), Guide to AUN-QA Assessment at Programme Level (Version 3.0), Asean University Network Quality Assurance.
Bộ GD&ĐT (2017), Thông tư ban hành Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở chất lượng cơ sở giáo dục đại học, Số 12/2017/TT-BGD&ĐT, ban hành ngày 19/05/2017.
ĐHQGHN (2012), Chiến lược đảm bảo chất lượng giáo dục của ĐHQGHN (Giai đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030), số 4611/ĐHQGHN-ĐBCL, ban hành ngày 28/12/2012.
ĐHQGHN (2016) Sổ tay đảm bảo chất lượng.
Woodhouse, D (1998), Audit Manual: Handbook for institutions and members of audit panels, 3rd edn, New Zealand Universities Academic Audit Unit, Wellington.
Theo Phùng Xuân Dự, Nguyễn Thái Bá, Nghiêm Xuân Huy, Đào Văn Huy (2021), Sách chuyên khảo “Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ đại học: Lý luận và thực tiễn”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.