Từ lý luận đến thực tiễn trong công tác đảm bảo chất lượng bên trong và kiểm định chất lượng tại Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh

1. Đặt vấn đề

Kiểm định chất lượng giáo dục trên thế giới đã có một quá trình phát triển lâu đời, vì vậy so với khu vực châu Âu, Bắc Mỹ và gần hơn là một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Philippines, Singapore,…có thể nói hệ thống đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục ở nước ta được hình thành tương đối muộn. Năm 2003, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng mới được thành lập để quản lý và giám sát các hoạt động kiểm định chất lượng trong hệ thống giáo dục. Đứng trước nhu cầu chuyên môn hóa các hoạt động liên quan đến vấn đề xây dựng khung chính sách, pháp lý liên quan đến các hoạt động đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng ở các cấp, các cơ sở giáo dục nói chung và tổng kết bài học kinh nghiệm trong quá trình hoạt động thực tiễn, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng chính thức đổi tên thành Cục Quản lý chất lượng vào năm 2017 để tập trung nguồn lực nhằm chuyên môn hóa hoạt động được xã hội rất quan tâm này. Nhìn lại, lịch sử phát triển của lĩnh vực kiểm định chất lượng giáo dục ở nước ta, có thể thấy, các quy định về quy trình, chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục (Thông tư 62; 38; Công văn 1480); quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục (Quyết định 06;07;08 Văn bản hợp nhất); hướng dẫn tự đánh giá và sử dụng bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục (Công văn 462; 527); các quy định về điều lệ trường đại học; về tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục và kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục (Thông tư 60; 61; Quyết định 07),…thực chất mới chỉ đi vào thực hiện trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây. Nói riêng về đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học theo các bộ tiêu chuẩn quốc tế như AUN, ABET, ACBSP, FIBAA,…, ngoài 02 Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh và một số rất ít đại học lớn có điều kiện tiếp cận, nghiên cứu và thực hiện đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học từ rất sớm, số còn lại chỉ trong vòng 5-7 năm trở lại đây. Trường đại học Ngân hàng TP. HCM – là một trường công lập trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh đó.

2. Bước chuyển nhận thức trong công tác đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng và mối quan hệ giữa hai hoạt động này tại trường đại học Ngân hàng TP.HCM.

Nhận thức về công tác đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng

Tiền thân là một trường công lập đơn ngành được thành lập sau giải phóng (12/1976) đáp ứng yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng ở phía nam, đến năm 2015, trường Đại học Ngân hàng TP.HCM có gần 40 năm kinh nghiệm trong công tác quản lý và giảng dạy. Kể từ năm 1986 – thực hiện chính sách mở cửa, Đảng và nhà nước ta chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế phục vụ mục đích phát triển kinh tế – xã hội. Với đường lối mới – giai đoạn này, chúng ta thu hút được nhiều kênh đầu tư khác nhau, các hoạt động kinh tế – xã hội có nhiều bước đột phá, các loại thị trường xuất hiện ngày càng nhiều và đòi hỏi phải có nguồn nhân lực để đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đởi mới đó. Chính vì vậy, khối ngành kinh doanh – quản lý trong đó có ngành tài chính – ngân hàng được xã hội đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên giai đoạn này chưa có nhiều cở sở đào tạo chuyên về tài chính – Ngân hàng như ngày nay và cũng do phương thức thi tuyển vào các trường đại học lúc đó còn chủ yếu dựa vào kết quả cạnh tranh từ trên xuống của thí sinh cho nên chất lượng của một trường đại học chủ yếu được dựa vào chất lượng đầu vào của sinh viên; của truyền thống, thương hiệu chứ chưa ý thức đầy đủ rằng chất lượng là một quá trình đào tạo và phải được đo lường, được đánh giá trong, đánh giá ngoài và được kiểm định. Do điều kiện thực tế trong bối cảnh chung của cả nước như vậy nên khi đề cập đến khái niệm chất lượng thường được hiểu là chất lượng đầu vào hoặc chất lượng đầu ra. Đảm bảo chất lượng chưa được hiểu một cách đầy đủ, toàn diện trong giai đoạn này. Vấn đề này được chính thức quan tâm khi Luật giáo dục năm 2005 được ban hành, sau đó là Luật giáo dục đại học năm 2012 tiếp tục quy định sâu hơn về đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học. Luật số: 34/2018/QH14ngày 19 tháng 11 năm 2018 ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 32/2013/QH13, Luật số 74/2014/QH13 và Luật số 97/2015/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2019 cũng có riêng 3 điều 49, 50, 52 và các điều khoản liên quan quy định tương đối toàn diện và đầy đủ về đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học. Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 ngày 14/6/2019, hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020 cũng dành chương VIII (mục 3 với 3 điều từ 110 đến 112) để quy định về kiểm định chất lượng giáo dục. Với một số dẫn chứng trên, có thể thấy rằng việc nhận thức về công tác đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng đã có bước chuyển căn bản, sâu sắc, toàn diện và càng ngày càng đầy đủ hơn cả ở bình diện vĩ mô là quản lý Nhà nước cho đến bình diện vi mô là các bên liên quan của một cơ sở giáo dục. Những chuyển biến lớn về mặt lý luận đó đã được cụ thể hóa trong hoạt động thực tiễn bằng những kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực ở các cơ sở giáo dục tạo nền tảng vững chắc để các trường thực hiện bước chuyển thực chất về chất lượng đào tạo. Thông qua những hoạt động liên quan đến đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng, các cơ sở giáo dục trong đó có Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM đã góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Nhận thức về mối quan hệ giữa đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng

Mối quan hệ giữa đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng là mối quan hệ biện chứng, thực chất đây là hai mặt của một vấn đề “chất lượng”. Đảm bảo chất lượng giáo dục là quá trình duy trì chất lượng giáo dục ổn định nghĩa là nhằm khắc phục khả năng thiếu ổn định của chất lượng giáo dục. Tính chất thiếu ổn định của dịch vụ giáo dục mang tính bản chất cho nên cần có giải pháp đảm bảo chất lượng này. Điều này cho thấy năng lực duy trì thậm chí cải thiện chất lượng để phù hợp với yêu cầu về chất lượng này ngày càng gia tăng. Kiểm định chất lượng nhằm rà soát, đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng đặt ra để thấy được những vấn đề cần điều chỉnh cũng như để so sánh giữa các cơ sở cung ứng dịch vụ giáo dục. Để hội nhập thị trường dịch vụ giáo dục toàn cầu cần có giải pháp phù hợp trong đó yêu cầu về chất lượng được đặt lên hàng đầu. Nói cách khác, hội nhập thị trường dịch vụ giáo dục quốc tế là tiêu chuẩn bao trùm đánh giá năng lực thực tiễn của công tác đảm bảo lượng và kiểm định chất lượng của cơ sở cung ứng dịch vụ. Hệ thống đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng cần tạo dựng được lòng tin cao nhất đối với xã hội.

Ngày này hội nhập thị trường dịch vụ giáo dục quốc tế đã và đang đặt ra những áp lực phải bảo đảm tính thống nhất và sự phù hợp giữa thị trường dịch vụ trong nước và toàn cầu. Các loại rào cản hội nhập thị trường dịch vụ giáo dục xuất phát từ cách thức xử lý các khác biệt chất lượng dịch vụ giáo dục trong nước và quốc tế mà cụ thể là chất lượng giáo dục quốc tế cao hơn so với chất lượng giáo dục trong nước. Điều này đòi hỏi phát huy triệt để tác động của công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng như là sự định vị chất lượng của cơ sở dịch vụ giáo dục trong hệ thống giáo dục đa dạng và nhiều tầng nấc toàn cầu. Trên cơ sở đó, liên tục cải thiện chất lượng giáo dục đạt đẳng cấp quốc tế nghĩa là cải thiện lợi thế so sánh dịch vụ (Nguyễn Thường Lạng, 2014).

Mối quan hệ biện chứng này có thể được phân tích ở các chiều tác động qua lại giữa chúng trên nền tảng thị trường dịch vụ giáo dục ngày càng có chất lượng cao.

Thứ nhất, đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục là một hệ thống các công việc mang tính kỹ thuật rất cao, có tính hệ thống lớn, mức độ chuyên nghiệp hóa cao, làm tăng bản chất thương mại của dịch vụ giáo dục. Việc thực hiện công tác đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục tạo nền tảng để phát huy quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đặc biệt là cơ sở giáo dục công lập. Khối các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa cho rằng cung ứng dịch vụ giáo dục không mất tiền hay miễn phí là thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, theo WTO với tất cả các thành viên đều là nền kinh tế thị trường, giáo dục là dịch vụ mang bản chất thương mại và cung ứng theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường như  được phân tích trên đây. Bản chất thương mại của dịch vụ giáo dục càng được bộc lộ minh bạch và rõ ràng, càng làm tăng khả năng giám sát của xã hội, cộng đồng và các đối tượng hữu quan.

Nhu cầu của xã hội, cộng đồng đối với dịch vụ giáo dục là chất lượng ngày càng cao cho nên việc đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng góp phần làm bộc lộ bản chất thương mại của nó. Theo đó, hệ thống giáo dục trong nước và toàn cầu có nền tảng chung để phát triển liên thông và hội nhập nhanh chóng vì cùng có chung bản chất thương mại. Đồng thời, khi bản chất thương mại của dịch vụ giáo dục được bộc lộ, lợi thế của dịch vụ này được thể hiện ở chất lượng cao và giá cả được hình thành tương ứng. Như vậy, đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục là phương tiện và cách thức hội nhập hiệu quả thị trường dịch vụ giáo dục quốc gia vào thị trường dịch vụ giáo dục toàn cầu thực tế cho thấy, Trung Quốc xây dựng hệ thống kiểm định và phân hạng các trường đại học toàn cầu cũng như công bố kết quả phân hạng này hàng năm cho thấy khả năng hội nhập rất cao của các cơ sở giáo dục Trung Quốc với hệ thống giáo dục toàn cầu theo những nguyên tắc của thương mại hóa dịch vụ giáo dục. Nhiều vị trí cao của các cơ sở giáo dục ở các nước công nghiệp phát triển đã phải nhường vị trí cho các cơ sở giáo dục châu Á đặc biệt là cơ sở giáo dục của Trung Quốc. Bên cạnh đó, một số tổ chức kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục quốc tế được hình thành.

Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, chủ động, tích cực đòi hỏi coi trọng và đẩy mạnh việc thực hiện công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục. Công tác này được thực hiện thường xuyên ở các cơ sở giáo dục trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cao và trở thành một dịch vụ mang tính chuyên nghiệp hóa cao. Việc thực hiện công tác này góp phần làm bộc lộ cơ chế và thể chế giáo dục hiện có, phương thức vận hành của bản chất thương mại của dịch vụ giáo dục và là tiêu chuẩn không thể thiếu để cơ sở giáo dục vươn lên đạt thứ hạng cao trong hệ thống giáo dục. Việc thực hiện công tác này định vị chính xác và khách quan cơ sở giáo dục trong thị trường dịch vụ giáo dục toàn cầu. Điều này tạo căn cứ để các cơ sở giáo dục đánh giá đúng thực trạng chất lượng, tìm chọn đối tác quốc tế và trong nước phù hợp cũng như có chiến lược đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng và thực hiện chiến lược cải tiến chất lượng liên tục. Chất lượng dịch vụ giáo dục càng cao, mức độ tín nhiệm càng lớn và học phí sẽ càng cao. Cơ sở sẽ thu hút được nhiều sinh viên xuất sắc và theo đó uy tín của cơ sở tăng lên. Điều này làm tăng lợi ích kinh tế và tài chính, giá trị hữu hình và vô hình của cơ sở giáo dục. Nói cách khác, những lợi ích thương mại của cơ sở giáo dục tăng lên. Ngược lại, những cơ sở không thực hiện đảm bảo và kiểm định chất lượng khó duy trì ổn định chất lượng và không nhận thức được mức độ cải thiện chất lượng thông qua cải thiện vị trí xếp hạng được công bố hàng năm. Thị trường dịch vụ giáo dục có tính cạnh tranh cao và là tiêu chuẩn sàng lọc chính xác nhất mức độ đáp ứng chất lượng của cơ sở giáo dục buộc chúng phải liên tục cải thiện chất lượng, khắc phục các khâu yếu, loại bỏ các yếu tố làm giảm chất lượng để tồn tại trong cạnh tranh, nếu không, cơ sở giáo dục có thể không tồn tại hoặc bị đẩy lùi về phía sau của sự phát triển.

Như vậy, đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng tạo điều kiện để hội nhập quốc tế vào thị trường dịch vụ giáo dục toàn cầu hiệu quả. Giữa chúng có mối quan hệ biện chúng với nhau cho nên cần khai thác mối quan hệ này theo những cách thức phù hợp. Thị trường dịch vụ giáo dục đòi hỏi khắt khe công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng còn công tác này tạo nền tảng thuận lợi để các cơ sở giáo dục hội nhập thành công.

3. Xây dựng văn hóa chất lượng – Sự phát triển bền vững tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

Văn hóa tổ chức là một tập hợp các nguyên tắc được chia sẻ chung giữa những thành viên của một tập thể, được hình thành trong quá trình tập thể ấy giải quyết các vấn đề nhằm thích ứng với môi trường bên ngoài cũng như các vấn đề liên quan đến sự kết nối bên trong. Đó là những nguyên tắc đã tỏ ra có hiệu quả tốt để mọi người đều công nhận giá trị của chúng, và vì vậy, chúng được truyền đạt đến những thành viên mới nhằm giúp họ hình thành cách lĩnh hội, tư duy và cảm nhận khi đối diện với các vấn đề của tập thể.

Cũng giống như một tổ chức, trường đại học là một cơ sở giáo dục, và nó có nhiều đặc trưng tương đồng với doanh nghiệp. Mối quan tâm nghiên cứu về sự hình thành và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của trường đại học được cho là đã bắt đầu nở rộ từ đầu những năm 1960 với các nghiên cứu ban đầu về văn hóa trong cộng đồng sinh viên, cho tới gần đây là các nghiên cứu về văn hóa đối với cả một hệ thống đại học.

Những kết quả nghiên cứu, khảo sát về văn hóa tổ chức, mà đặc biệt là văn hóa doanh nghiệp, đã cho thấy vai trò quan trọng của văn hóa và xây dựng văn hóa đối với sự tồn tại, phát triển của các tổ chức và doanh nghiệp. Những kết quả này khiến người ta bắt đầu nhận ra rằng, có những nhân tố vô hình tạo nên sự thành công, mà tầm quan trọng của nó còn lớn hơn nhiều so với nguồn lực tài chính, đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị. Đối với một trường đại học, nguồn nhân lực chuyên môn thường được coi là đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của nhà trường. Nhưng vấn đề là, cũng là những con người ấy, với bấy nhiêu phẩm chất và năng lực, nhưng họ có thể làm việc một cách rất khác và đạt được những kết quả rất khác biệt trong những môi trường làm việc khác nhau. Chính Văn hóa tổ chức – Văn hóa cơ sở đào tạo đã tạo ra sự khác biệt trong những môi trường làm việc khác nhau như vậy.

Để kiện toàn và phát huy văn hóa chất lượng, cần thực hiện mấy nội dung sau:

Một là, Hoàn thiện các tài sản vô hình và hữu hình

Bất kỳ trường đại học nào muốn tồn tại và phát triển bền vững cũng phải sở hữu những tài sản hữu hình và vô hình riêng giúp vận hành nhà trường một cách hiệu quả. Tuy nhiên, trong bối cảnh của giáo dục đại học Việt Nam còn có những bất cập nhất định, có một số loại tài sản chưa thật sự được chú ý phát triển, chẳng hạn: triết lý giáo dục, triết lý hoạt động, tầm nhìn, sứ mệnh, hệ thống giá trị cốt lõi, các qui tắc ứng xử trong nhà trường và với bên ngoài. Những tài sản này là rất cần thiết bởi chúng đóng vai trò định hướng cho sự phát triển của nhà trường và hoạt động của mỗi cá nhân (cán bộ, giảng viên, nhân viên, người học).

Hai là, vun đắp và phát triển các giá trị tiềm ẩn

Các giá trị tiềm ẩn là là những niềm tin và giá trị được một tổ chức thể hiện, đặc biệt ở các cấp lãnh đạo, khi điều hành tổ chức, giải quyết công việc, khi ứng xử với các vấn đề bên trong và bên ngoài tổ chức. Đồng thời đó cũng là những niềm tin, nhận thức và cảm nhận đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi thành viên, và được mỗi thành viên thể hiện mang tính bản năng, thói quen hàng ngày. Những giá trị này đã trở thành quan niệm chung của tổ chức, được mọi người trong tổ chức thừa nhận, khó bị thay đổi, và họ sẽ phản ứng một cách tự nhiên với những gì không phù hợp.

Để phát triển các giá trị tiềm ẩn, vai trò của người lãnh đạo là rất quan trọng, đôi khi mang tính quyết định. Xuất phát từ một triết lý quản trị đại học phù hợp, ban lãnh đạo xây dựng triết lý giáo dục, tầm nhìn, sứ mệnh, các ý tưởng và kế hoạch hành động, rồi chia sẻ chúng với các thành viên để mọi người cùng quyết tâm thực hiện. Một khi những ý tưởng này được chứng minh là đúng và thật sự mang lại hiệu quả, thì những giá trị mang lại từ ý tưởng đó sẽ từng bước được khẳng định ở mỗi thành viên và mang tính bền vững. Khi đó, một sự thay đổi về nhân sự cấp cao trong nhà trường sẽ không tạo ra những xáo trộn trong hoạt động chung (Trần Hữu Nghị, Nguyễn Thị Mai, 2013).

Xây dựng chuẩn mực chất lượng đối với các hoạt động trong nhà trường (giảng dạy, nghiên cứu khoa học, học tập, phục vụ) và kiên trì thực hiện để từng bước xác lập một nền Văn hóa chất lượng cũng là một giải pháp quan trọng, góp phần hình thành các giá trị bền vững ở mỗi thành viên trong nhà trường.

Trong những năm gần đây, Nhà trường luôn quan tâm và chú trọng việc đáp ứng sự thỏa mãn yêu cầu của các bên liên quan. Để đạt được mục tiêu này, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực bao gồm cán bộ giảng dạy, cán bộ hỗ trợ và cán bộ quản lý đã được đề ra và chúng tôi coi đây là điểm nhấn cho các đổi mới khác.

4. Xây dựng Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong một số thành quả trong công tác tự đánh giá, đánh giá ngoài tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCMTừ ý tưởng thành hiện thực

Xây dựng Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong tại Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM

Đi theo những định hướng nêu trên, ngay từ năm 2014, Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM đã nghiêm túc trong việc nghiên cứu và triển khai phương thức đào tạo hiện đại theo công nghệ CDIO – một phương pháp mà trong đó chương trình đào tạo được xây dựng tích hợp các kiến thức kỹ thuật với các kỹ năng cá nhân, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng kiến tạo ra các sản phẩm, quy trình và hệ thống. Sinh viên theo học các chương trình này sẽ có những trải nghiệm phong phú trong môi trường học tập hiện đại. Đặc trưng nổi bật của các chương trình học này là phương pháp học chủ động, học trải nghiệm và được cải tiến liên tục thông qua quá trình đánh giá chất lượng chặt chẽ. Mặc dù chỉ là những kết quả ban đầu nhưng đây là một trong những giải pháp quan trọng góp phần chuẩn hóa công tác xây dựng và phát triển chương trình đào tạo tại Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM trong những năm tiếp theo; tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi sinh viên, liên thông, liên kết đào tạo với các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. Ngày 27/01/2016, Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM đã ký Quyết định số 139/QĐ-ĐHNH về việc ban hành Bộ Chương trình đào tạo (gồm chuẩn đầu ra và đề cương môn học) được xây dựng tiếp cận theo phương pháp CDIO và chuẩn đầu ra AUN-QA thuộc chương trình đào tạo đại học chính quy gồm 10 chương trình đào tạo với 193 môn học, học phần.

Riêng đối với công tác xây dựng hệ thống quản chất lượng, vào ngày 25/1/2016, Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM đã ký hợp đồng với APAVE Châu Á – Thái Bình Dương cung cấp dịch vụ “Đào tạo về lý thuyết và hướng dẫn thực hành áp dụng Tiêu chuẩn Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2015 và Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học”. Qua hợp đồng cung cấp dịch vụ “Đào tạo về lý thuyết và hướng dẫn thực hành áp dụng Tiêu chuẩn Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2015 và Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học”, APAVE có trách nhiệm hỗ trợ trường Đại học Ngân hàng TP.HCM để trường chuẩn bị đầy đủ những điều kiện để đạt được chứng nhận Hệ thống Quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2015 và được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục trường đại học cho tổ chức của mình. Trong những năm vừa qua ĐH Ngân hàng TP.HCM đã được tổ chức AFNOR của cộng hòa Pháp thực hiện đánh giá duy trì hệ thống quản lý chất lượng với chất lượng tốt.

Vấn đề đặt ra là làm sao gắn kết được bộ phận ĐBCL trực thuộc Phòng Khảo thí và Đảm bảo Chất lượng với nhân lực được phân công ở phòng, ban, khoa. Đây là một trong những lý do cho sự hình thành hệ thống ĐBCL của trường ĐH Ngân hàng TP.HCM. Hệ thống này đã được hình thành với cơ cấu tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ ở cả cấp trường ĐH Ngân hàng TP.HCM và cấp Khoa với sự phân cấp rõ ràng về chức năng và nhiệm vụ. Trong đó, ở cấp trường, Hội đồng trường, Ban chất lượng có chức năng ra quyết định và xây dựng kế hoạch, chiến lược ĐBCL. Phòng Khảo thí và Đảm bảo Chất lượng là bộ phận nòng cốt và là đơn vị đầu mối, thường trực của các hoạt động kiểm định, đánh giá về chất lượng. Phòng có chức năng tư vấn cho lãnh đạo Trường về mục tiêu, chính sách, thủ tục, quy định và kế hoạch cụ thể liên quan đến việc thực hiện công tác ĐBCL và Kiểm định chất lượng; giám sát, phối hợp và hỗ trợ các đơn vị các hoạt động chuyên môn; xây dựng và thực hiện kế hoạch hợp tác với các tổ chức có liên quan trong và ngoài nước.

Ở cấp Khoa thì có các cán bộ, giảng viên, chuyên viên phụ trách công tác ĐBCL. Các bộ phận này hoạt động theo quy định của cơ sở giáo dục, có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị chức năng khác trong việc giúp lãnh đạo đơn vị xây dựng cơ chế ĐBCL của đơn vị mình và thực hiện thu thập, lưu trữ thông tin phản hồi về chủ trương, chính sách, quy định, cơ chế quản lý, điều kiện nguồn lực, quy trình triển khai và kết quả đạt được về các mặt hoạt động của đơn vị theo các tiêu chuẩn hiện hành; tư vấn cho lãnh đạo đơn vị các biện pháp và kế hoạch cải tiến hoạt động và nâng cao chất lượng đào tạo,…

Công tác nâng cao năng lực đội ngũ cho cán bộ làm công tác ĐBCL tại Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM ngày càng được chú trọng phát triển. Từ năm năm 2015 trở lại đây, Trường đã cử hơn hàng trăm lượt cán bộ, giảng viên, chuyên viên tham dự lớp tập huấn liên quan đến các hoạt động: xây dựng và vận hành hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001:2015; tự đánh giá cơ sở đào tạo, chương trình đào tạo; xây dựng chương trình đào tạo; kiểm định chất lượng theo các bộ tiêu chuẩn trong nước, quốc tế.

Có thể nói, việc triển khai hiệu quả công tác rà soát, đổi mới các chương trình đào tạo và tăng cường công tác ĐBCL bên trong, bên ngoài thời gian qua không chỉ góp phần hình thành văn hóa chất lượng tại Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM mà còn giúp các đơn vị dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các chuẩn trong khu vực và trên thế giới (Bùi Hữu Toàn và nnk., 2020).

Một số thành quả trong công tác tự đánh giá, đánh giá ngoài tại trường ĐH Ngân hàng TP.HCM

Từ nhận thức chất lượng là sự sống còn của một trường đại học (Lý Hoàng Ánh và nnk., 2016), Đảng ủy-Ban giám hiệu Nhà trường đã tập trung chỉ đạo phòng chức năng thực hiện tốt công tác đảm bảo chất lượng bên trong và đảm bảo chất lượng bên ngoài cũng như xây dựng, vận hành hệ thống quản lý chất lượng theo bộ tiêu chuẩn ISO 9001:2015 một cách hiệu quả. Trên cơ sở của những nghiên cứu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cả trong và ngoài nước, đặc biệt là quyết tâm chính trị của tập thể cán bộ, giảng viên, công nhân viên, Trường Đại học Ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất định trong công tác xây dựng, vận hành hệ thống quản lý chất lượng và công tác đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng giáo dục. Có thể kể đến một số thành tựu trong hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong và bên ngoài như sau:

  • Cuối năm 2015 Nhà trường bắt đầu triển khai công tác tự đánh giá cấp cơ sở đào tạo theo bộ tiêu chuẩn MOET, đến tháng 08/2017, Trường thực hiện đánh giá ngoài thành công và được cấp giấy chứng nhận kiểm định Cở cở đào tạo đạt chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo vào tháng 12/2017.
  • Đầu năm 2016 Trường triển khai công tác xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo bộ tiêu chuẩn ISO 9001:2015 bằng việc soạn thảo hệ thống các văn bản, quy trình, quy định, hướng dẫn, biểu mẫu,…và được tổ chức AFNOR của Cộng hòa Pháp đánh giá, cấp giấy chứng nhận Cung cấp dịch vụ đào tạo đại học và sau đại học theo tiêu chuẩn ISO 9001:2015 vào tháng 07/2017.
  • Cũng cuối năm 2016, Trường triển khai công tác tự đánh giá 2 chương trình đào tạo (Tài chính và Ngân hàng) theo bộ tiêu chẩn AUN-QA, đến cuối tháng 03/2019, Trường thực hiện đánh giá ngoài thành công và được cấp giấy chứng nhận kiểm định chất lượng 2 Chương trình đào tạo đạt chuẩn.

Những thành tích nêu trên mới chỉ là bước đầu để thực hiện bước chuyển về chất trong chất lượng cơ sở đào tạo nói chung (chất lượng của hệ thống quản lý; chất lượng dịch vụ đào tạo; chất lượng chương trình đào tạo; chất lượng nguôn nhận lực;…), do đó để văn hóa chất lượng thực sự thấm sâu vào từng cán bộ giảng viên, công nhân viên, Đảng ủy – Ban Giám hiệu Nhà trường chỉ đạo tất cả các đơn vị tiếp tục tự đánh giá và tự điều chỉnh, tự cải tiến đáp ứng yêu cầu mới trong bối cảnh chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo không chỉ sau những khuyến nghị, góp ý, đề xuất của những đoàn đánh giá ngoài mà còn chủ động tích cực thực hiện các kế hoạch hành động, mục tiêu chất lượng do đơn vị vạch ra để làm cho công tác tự cải tiến, tự đổi mới trở thành hoạt động định kỳ, thường xuyên và liên tục đúng như mục đích cốt lõi của công tác kiểm định.

Bằng cách tiếp cận xem chất lượng là một quá trình và quán triệt việc triển khai những nhiệm vụ chính trị chủ đạo, kết quả của quá trình đó là bộ ba thành tựu về chất lượng của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM được từng bước thực hiện, bộ ba thành tựu này như “kiềng ba chân” về chất lượng của một trường đại học mang tầm khu vực (Chất lượng hệ thống quản lý; chất lượng cơ sở đào tạo; chất lượng chương trình đào tạo) (O.V.Năm nhấn mạnh) tạo nền tảng vững chắc để trên cơ sở đó Nhà trường có đầy đủ điều kiện hiện thực hóa kế hoạch đảm bảo chất lượng, kiểm định chất lượng, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển của Trường.

5. Tác động của công tác đánh giá và kiểm định đến sự phát triển của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

Trên tinh thần cải tiến liên tục, sau những đợt tự đánh giá, đánh giá nội bộ, đánh giá ngoài, và dựa trên kết quả kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất lượng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, kết quả kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở đào tạo, kết quả kiểm định chương trình đào tạo, kết quả đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý cùng những khuyến nghị của đoàn đánh giá ngoài, Hội đồng kiểm định chất lượng giáo dục, Hội đồng AUN-QA,  Đảng ủy – Ban Giám hiệu Nhà trường đã tổ chức các cuộc họp để phân tích nguyên nhân, nhận thức rõ những hạn chế, duy trì – phát huy điểm mạnh để đi đến thống nhất tư tưởng trong toàn thể cán bộ giảng viên công nhân viên. Luôn sâu sát với hoạt động đảm bảo chất lượng, lãnh đạo Nhà trường chỉ đạo tất cả các đơn vị liên quan tập trung giải quyết những vấn đề còn tồn tại đưa ra giải pháp phù hợp nhất để thực hiện kế hoạch hành động, tập trung cải thiện chất lượng góp phần nâng tầm Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM lên một vị thế mới.

Thực hiện văn hóa chất lượng trên nền tảng của chu trình PDCA, bằng những nỗ lực không mệt mỏi của tập thể cán bộ công nhân viên, trong những năm vừa qua, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM đã có những bước chuyển căn bản, tích cực, góp phần vào sự phát triển chung của ngành giáo dục và đào tạo. Sau mỗi lần tự đánh giá và đánh giá ngoài, Nhà trường lại tích lũy được những kinh nghiệm quý báu trong tất cả các hoạt động từ rà soát, xây dựng chương trình đào tạo; đào tạo và quản lý hoạt động đào tạo; tuyển dụng và quản lý nhân sự; nghiên cứu và quản lý hoạt động khoa học công nghệ; quản lý các hoạt động hợp tác quốc tế; quản lý tài chính; phục vụ và hỗ trợ người học; quản lý và sử dụng cơ sở vật chất,.… cho đến giám sát, quản lý chiến lược phát triển của Trường (Báo cáo Tự đánh giá giữa chu kỳ kiểm định Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, 2020). Có thể nhận thấy một số tác động tích cực căn bản đến sự phát triển của Nhà trường sau các hoạt động đánh giá, kiểm định sau đây:

Một là, Nhà trường đã xây dựng và duy trì được hệ thống đảm bảo chất lượng trong những năm qua tạo cơ sở vững chắc để Nhà trường có những bước phát triển xa hơn, bền vững hơn về văn hóa chất lượng.

Hai là, Nhà trường đã xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2015 và được tổ chức AFNOR của Cộng hòa Pháp đánh giá duy trì chất lượng hàng năm. Theo đó, các quy định, quy chế, văn bản còn thiếu đã được soạn thảo và ban hành phục vụ đắc lực cho hoạt động quản lý vào đào tạo.

Ba là, đội ngũ lãnh đạo, quản lý và giảng viên, chuyên viên có trình độ cao được tăng cường và được tuyển dụng đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của Trường, đặc biệt là yêu cầu về kiểm định cơ sở đào tạo cũng như chương trình đào tạo. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên có xu hướng giảm. Các hoạt động về tuyển dụng, bồi dưỡng, về đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ tại chỗ được triển khai thực hiện đúng kế hoạch góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Bốn là, chương trình đào tạo ở tất cả các bậc, hệ đã được định kỳ rà soát, chỉnh sửa, cập nhật phù hợp với yêu cầu của người học, nhà sử dụng lao động và năng lực thực tiễn của Nhà trường. Các chương trình đào tạo sau đại học đã được đổi mới theo hướng tinh gọn và chuyên sâu đáp ứng yêu cầu mới của xã hội. Một số chương trình đào tạo đại học đã được tổ chức AUN-QA kiểm định và cấp giấy chứng nhận đạt chất lượng.

Năm là, hoạt động đào tạo và quản lý đào tạo đã có bước chuyển biến căn bản thông qua những tiến bộ về xây dựng thang đánh giá chi tiết điểm quá trình, thi kết thúc học phần, phân quyền truy cập để phân tích phổ điểm và những cải tiến trong phầm mềm quản lý đào tạo, hoạt động đào tạo, hệ thống thông tin và quản lý dữ liệu đào tạo. Kết quả của những điều chỉnh đó là tỷ lệ tốt nghiệp tăng lên, tỷ lệ sinh viên thôi học giảm, tỷ lệ người học ra trường có việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo tăng; hệ thống quản lý thông tin, dữ liệu được phân định rõ ràng và vận hành ngày càng hiệu quả.

Sáu là, hoạt động nghiên cứu, quản lý khoa học và hợp tác quốc tế có nhiều dấu ấn lịch sử. Các công trình và bài báo công bố quốc tế được tăng lên về số lượng và chất lượng. Nhà trường đã trang bị phần mềm cung cấp thông tin, dữ liệu phục vụ nghiên cứu, đặc biệt đã có tạp chí xuất bản bằng tiếng Anh. Một số thành quả nghiên cứu của các nhóm nghiên cứu mạnh đã được sử dụng cho mục đích dự báo kinh tế Việt Nam. Đào tạo và hợp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng góp phần không nhỏ vào việc hiện thực hóa chiến lược phát triển của Nhà trường.

Bảy là, cơ sở vật chất và trang thiết bị phụ vụ cho học tập và nghiên cứu, giảng dạy từng bước được cải thiện. Các đầu sách, tạp chí cả tiếng Việt và tiếng Anh được tăng lên về số lượng; Thư viện điện tử được chú trọng phát triển tạo động lực thúc đẩy các hoạt động học tập và nghiên cứu. Phòng học, phòng thực hành cho sinh viên và nơi làm việc của các phòng/khoa/bộ môn/cán bộ nhân viên ngày càng khang trang, hiện đại đáp ứng tốt nhu cầu mới của hoạt động dạy học.

Tám là, công tác lập kế hoạch tài chính và quản lý tài chính được chuẩn hóa, công khai, minh bạch, đúng quy định. Nhà trường đã trình đề án tự chủ tài chính; xây dựng kế hoạch đa dạng hóa các nguồn thu hợp pháp cho Trường. Đời sống của cán bộ công nhân viên Nhà trường ngày một cải thiện (Báo cáo tổng kết công tác chất lượng năm 2019 Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM 2019).

Tuy nhiên bên cạnh những thành tích do tác động tích cực của hoạt động kiểm định mang lại, Nhà trường vẫn còn một số hạn chế mà chưa thể khắc phục ngay trong khoảng thời gian ngắn. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, Nhà trường sẽ tiếp tục tổng kết kinh nghiệm thực tiễn công tác đánh giá, kiểm định, kế thừa phát huy những điểm mạnh, loại bỏ dần những điểm chưa phù hợp, không ngừng cải tiến và chủ động sáng tạo, thực hiện tốt những khuyến nghị của các Đoàn đánh giá ngoài, Hội đồng kiểm định trong và ngoài nước để chất lượng các hoạt động của Trường ngày càng nâng cao, góp khẳng định vị trí, thương hiệu đào tạo của Nhà trường mang tầm khu vực và quốc tế. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bùi Hữu Toàn (chủ biên), Lê Văn Hải, Ông Văn Năm (2020), Kiểm định chất lượng giáo dục quốc tế – Con đường hội nhập và phát triển, NXB. Tài chính.

Luật giáo dục của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.

Luật giáo dục đại học của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam số 08/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số 34/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018.

Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Lý Hoàng Ánh, Lê Văn Hải, Ông Văn Năm (đồng chủ biên) (2016), Chất lượng đào tạo của trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh – 40 năm xây dựng và phát triển, NXB. Đại học Kinh tế TP.HCM.

Nguyễn Thường Lạng (2014). Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng để Việt Nam hội nhập hiệu quả thị trường dịch vụ giáo dục toàn cầu. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học: con đường hội nhập quốc tế” – Đại học Quốc gia TP.HCM.

Trần Hữu Nghị, Nguyễn Thị Mai (2013). Sử dụng ISO trong quản lý giáo dục. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt Nam” – Ban Liên lạc các trường đại học và cao đẳng Việt Nam.

Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM (2019), Báo cáo tổng kết công tác chất lượng năm 2019.

Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM (2020), Báo cáo Tự đánh giá giữa chu kỳ kiểm định.

Theo Văn Năm. (2021), Sách chuyên khảo “Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ đại học: Lý luận và thực tiễn”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

Leave a reply

https://unihub.vnu.edu.vn/
https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2016/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2021/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2022/