Mối tương quan giữa kiểm định chất lượng giáo dục và tự chủ đại học ở việt nam – từ chính sách đến thực tiễn

1. Đặt vấn đề

Kiểm định chất lượng sẽ thúc đẩy các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục đây được xem như là những yếu tố quyết định tới sự phát triển của trường đại học. Tự chủ đại học với vai trò là một cơ chế quản trị tiên tiến là yếu tố then chốt để giải phóng sức mạnh của cơ sở giáo dục đại học nói chung và khắc phục những điểm yếu về điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục nói riêng. Cơ hội để gia tăng các điều kiện đảm bảo chất lượng cốt lõi (nhân lực, cơ sở vật chất, bộ máy quản trị) trong bối cảnh tự chủ đại học là rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề là các cơ sở giáo dục đại học chưa có sự vận dụng linh hoạt, hiệu quả cơ chế này, đi kèm với đó những giải pháp chưa cụ thể, khả thi, phù hợp với thực tiễn. Các cơ sở giáo dục đại học, với vị thế pháp lý của mình, cùng những cơ chế chính sách mới về tự chủ đại học sau khi Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018 ra đời, mặc dù vậy việc tận dụng tối đa cơ hội để bứt phá, tạo lập nền tảng phát triển bền vững còn nhiều hạn chế, bất cập. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu sản phẩm, tổng kết kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia nhằm đánh giá thực trạng về vấn đề này đảm bảo khách quan, khoa học. Trên cơ sở các chính sách và thực tiễn về kiểm định chất lượng và tự chủ đại học hiện hành, tác giả chỉ ra một số vấn đề vướng mắc trong quá trình xây dựng chính sách và thực tiễn triển khai về kiểm định chất lượng và tự chủ đại học ở Việt Nam để tiếp tục trao đổi, nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng chính sách và triển khai kiểm định chất lượng và tự chủ đại học trong bối cảnh Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) có hiệu lực thi hành.

2. Một số khái niệm

2.1. Khái niệm kiểm định chất lượng giáo dục đại học

Thuật ngữ “kiểm định” (accreditation) bắt nguồn từ Hoa Kỳ và các hệ thống kiểm định dựa trên mô hình của Hoa Kỳ sau đó đã được thiết lập ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Mục đích chính của các hệ thống này là đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi cho việc dịch chuyển sinh viên. 

Kiểm định chất lượng (KĐCL) là cách tiếp cận đảm bảo chất lượng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới hiện nay. Kiểm định chất lượng bắt đầu được áp dụng ở Hoa Kỳ cách đây 100 năm Hội đồng KĐCL giáo dục, Hoa Kỳ (CHEA) định nghĩa: Kiểm định chất lượng là một quá trình xem xét chất lượng từ bên ngoài được giáo dục đại học tạo ra và sử dụng để đánh giá các trường cao đẳng, đại học và các chương trình đào tạo nhằm đảm bảo cái tiến chất lượng (Nguyễn Đức Chính, 2002).

Ở nước ta, KĐCL được chính thức đưa vào văn bản năm 2004, tại Quyết định số 38/2004/QĐ-BGDĐT ngày 01/12/2004 của Bộ Trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định tạm thời về KĐCL trường đại học trong đó quy định “Kiểm định chất lượng trường đại học là hoạt động đánh giá ngoài nhằm công nhận trường đại học đáp ứng mục tiêu đào tạo đề ra (Điều 2 khoản 6) có hai loại hình kiểm định chất lượng: Kiểm định cơ sở giáo dục (Kiểm định trường) và kiểm định chương trình đào tạo. Kiểm định trường liên quan đến việc xem xét, đánh giá toàn bộ hoạt động của một cơ sở giáo dục đại học dựa trên một bộ tiêu chuẩn kiểm định trường. Kiểm định chương trình đào tạo là việc xem xét, đánh giá một phần cơ sở giáo dục đại học liên quan trực tiếp đến một chương trình/khóa đào tạo và chú trọng vào các hoạt động chuyên môn. Kiểm định chương trình có thể được thực hiện với một bộ tiêu chuẩn kiểm định được dùng chung cho các chương trình đào tạo hoặc một bộ tiêu chuẩn được xây dựng cho một chương trình đào tạo cụ thể.

Tại khoản 3 Điều 2 Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT quy định: Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học là hoạt động đánh giá và công nhận mức độ cơ sở giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành (Bộ GD&ĐT, 2017).

2.2. Tự chủ đại học

Theo từ điển tiếng Việt, tự chủ là tự điều hành, quản lí mọi công việc của mình, không bị ai chi phối (Nguyễn Như Ý, 1998). Điều này có nghĩa, tự chủ là khả năng tự điều hành, quản lý công việc của một cá nhân hay một nhóm người trong tổ chức để đạt được hiệu quả trong công việc. Như vậy, tự chủ là khả năng tự điều hành và quản lý mọi công việc của một cá nhân hay một tổ chức nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao đạt hiệu quả cao nhất có thể.

Tự chủ đại học là gì? Theo báo cáo đề dẫn của Debreczeni (2002) trong Hội thảo quốc tế “Tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức” thì tự chủ đại học được hiểu là tự chủ thể chế (institutional autonomy) (dẫn theo Nguyễn Trọng Tuấn, 2018). Nghĩa là tự chủ là dạng điều kiện cho phép một tổ chức giáo dục đại học điều hành hoạt động mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Sự tự do trong công việc sẽ thúc đẩy sự năng động và sự phát triển của từng cá nhân và kéo theo đó là sự vững mạnh của cơ sở giáo dục đại học. Trên thực tiễn, tự chủ trong giáo dục đại học diễn ra trên các phương diện sau:

Tự chủ thực chất (substantive autonomy): trường đại học có quyền xác định các chương trình học tập và mục đích của những chương trình này.

Tự chủ thủ tục (Procedural autonomy): trường đại học có quyền xác định các phương tiện cần thiết để hoàn thành các ưu tiên đáp ứng với các nhiệm vụ nằm trong chính sách quốc gia.

Tự chủ tổ chức (Organic autonomy): trường đại học có quyền xác định các tổ chức học thuật, nên dựa vào các Khoa và Phòng/Ban hay các trường, các viện nghiên cứu.

Tự chủ trong quản trị là sự tự do của cơ sở đào tạo trong việc sắp xếp và tổ chức các sự kiện, các mối quan hệ liên quan đến công việc lập kế hoạch, tổ chức và điều phối.

Tự chủ về tài chính là sự tự do của cơ sở đào tạo trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính theo chiến lược ưu tiên mà mình lựa chọn. 

Có thể nói, tự chủ được xem là cách thức để các trường đại học đạt được các mục tiêu sau:

Thứ nhất, thể hiện tính độc lập của nhà trường trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến sự phát triển của mình.

Thứ hai, quyền tự chủ của các trường đại học gắn liền với quá trình hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các công việc nội bộ của trường.

Thứ ba, quyền tự chủ đại học gắn liền với tự do học thuật của trường đại học.

Đại học vốn được xem là nơi đào tạo tinh hoa, chuyên gia để dẫn dắt xã hội, góp phần xây dựng phát triển đất nước nhưng phần lớn các trường đại học thường bị giới hạn quyền tự chủ trong các hoạt động như quyết định mục tiêu, phương hướng, cách thức triển khai, thực hiện mục tiêu phát triển của trường do luật định. Thế nên, dù có tự chủ, các trường đại học vẫn không thể tách rời, cách ly khỏi sự giám sát, kiểm soát của nhà nước và cơ quan điều hành là Bộ giáo dục và Đào tạo. Điều này cho thấy, tự chủ của các trường đại học giúp cho các trường có thêm nguồn lực để thực hiện sứ mệnh, vai trò của mình trong việc đào tạo nguồn nhân lực, nhưng tự chủ không có nghĩa là tách rời, thoát ly khỏi sự quản lý, giám sát của nhà nước mà tự chủ cũng cần có mối quan hệ ràng buộc với nhà nước và xã hội. Vì thế, tự chủ diễn ra ở mức độ nào thì cũng cần có sự giám sát của nhà nước và xã hội. Đó là:

Quyền tự chủ của các trường đại học gắn liền với tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình.

Quyền tự chủ của các trường đại học không có nghĩa là các trường tự lo việc tồn tại mà không có sự hỗ trợ của nhà nước.

Quyền tự chủ của các trường đại học gắn liền với quá trình xã hội hóa giáo dục đại học.

Như vậy, tự chủ đại học là cho phép các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự quyết của mình trên nhiều mặt khác nhau trong hoạt động quản lý, điều hành công việc giảng dạy, nghiên cứu cũng như các vấn đề liên quan. Tuy nhiên, giáo dục đại học là một lĩnh vực nhằm chính sách an sinh xã hội của nhà nước, nên dù thế nào thì nó vẫn thuộc hệ thống quản lý và điều hành của nhà nước, cho nên, giáo dục đại học dù có tự chủ thì cũng không thể nằm ngoài sự kiểm soát, giám sát của nhà nước.

2.3. Một số chính sách kiểm định chất lượng và tự chủ đại học ở Việt Nam

2.3.1. Kiểm định chất lượng giáo dục như là một phương thức để cơ sở giáo dục thực hiện nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm

Hiện nay, nhu cầu có một hình thức kiểm soát của xã hội đối với hoạt động của các trường đại học tự chủ ngày càng gia tăng và các trường đại học cũng tự giác minh bạch hóa thông tin và trách nhiệm của cơ sở giáo dục trên trang web với những cơ cấu khác nhau của các báo cáo của họ. Câu hỏi đặt ra là ai trong xã hội có điều kiện, khả năng để đọc, phân tích và phán xét về các báo cáo này, tức là ai có thể thực hiện chức năng kiểm soát này theo một cách đáp ứng có hiệu quả nhu cầu trừu tượng của xã hội mà không phải của một nhóm quyền lực đặc biệt trong xã hội. Mặt khác, bản thân cơ sở giáo dục cũng cần có một công cụ quản lý chất lượng hiệu quả cho các hoạt động trí tuệ và nhân văn rất đa dạng, phong phú (như một bức tranh rực rỡ muôn màu) trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt tạo nên bởi cơ chế thị trường. Trong bối cảnh đó, về phía xã hội, kiểm định và công nhận chất lượng (accreditation) bởi một tổ chức độc lập trở thành một lựa chọn để thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát việc giải trình và trách nhiệm của cơ sở giáo dục. Đồng thời, về phía nội bộ cơ sở giáo dục, kiểm định và công nhận chất lượng thúc đẩy các trường đại học phải xây dựng một hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ hiệu quả và bao phủ toàn bộ các hoạt động và các bên liên quan trong cơ sở giáo dục.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về chất lượng và quản lý chất lượng giáo dục, nhiều tổ chức trên thế giới, trong khu vực và ở Việt Nam đã triển khai việc kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục cũng như các chương trình giáo dục đại học. Những quan điểm cơ bản của mô hình đảm bảo chất lượng có thể tóm tắt trong một số điểm sau đây:

 Có áp lực trên toàn thế giới lên giáo dục đại học về việc phải chịu trách nhiệm về chất lượng của nó. Cơ sở giáo dục phải đảm bảo chất lượng và phải thể hiện cho các bên liên quan, rằng nó có thể cung cấp sản phẩm có chất lượng như dự kiến. Vấn đề là các bên liên quan không phải lúc nào cũng nói cùng một ngôn ngữ khi họ nói về chất lượng. Không có định nghĩa khách quan về chất lượng, cũng không có tiêu chuẩn khách quan về chất lượng. Tiêu chuẩn đo lường chất lượng cần một sự thống nhất giữa nhà trường và các bên liên quan. Các cơ sở giáo dục vẫn phải đối phó với vấn đề này. Cách tốt nhất để nói về chất lượng là chia sẻ một quan niệm chung. Một quan niệm khả thi là: chất lượng đạt được mục tiêu và mong đợi do trường đại học đặt ra, với giả định rằng các mục tiêu và mong đợi này được xây dựng thông qua đối thoại và thảo luận và tạo sự thống nhất với tất cả các bên liên quan.

 Chất lượng như sự đáp ứng với mục tiêu (fitness for purpose). Với khái niệm về chất lượng này, câu hỏi cơ bản là liệu trường đại học có thể đạt được các mục tiêu đã được xây dựng của nó? Nó liên quan đến chất lượng của các quy trình. Khái niệm chất lượng này được cải thiện theo định hướng của nhà trường. Tuy nhiên, một tổ chức có thể đặt mục tiêu quá thấp, do đó có thể dễ dàng đạt được mục tiêu đề ra. Điều này có nghĩa rằng chúng ta không chỉ phải thảo luận về sự đáp ứng với mục tiêu, mà còn là sự phù hợp của mục tiêu (fitness of purpose).

 Trên thực tế, chúng ta phải kết luận rằng, chất lượng là một khái niệm rất phức tạp. Chúng ta không thể nói về “Chất lượng (THE quality – số ít)”, chúng ta cần nói về “qualities – số nhiều”. Để mục tiêu của một trường đại học được xem là phù hợp thì mỗi trường đại học phải phân biệt và đáp ứng các yêu cầu chất lượng rất đa dạng và nhiều chiều do sinh viên, do thế giới học thuật, do thị trường lao động (người sử dụng lao động)/xã hội, và do Chính phủ đặt ra. Chúng ta cần một cái nhìn tổng thể (holistic) về chất lượng nhưng chúng ta lại chỉ có thể xác định chất lượng khi xem xét các yếu tố cụ thể.

 Chất lượng chủ yếu là trách nhiệm của chính trường đại học. Mặc dù ở nhiều quốc gia, Chính phủ có một trách nhiệm đặc biệt liên quan đến đảm bảo chất lượng, nhưng chính là trường đại học (và đặc biệt là cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên) chịu trách nhiệm cung cấp và đảm bảo chất lượng. Do đó, điều quan trọng là mỗi trường đại học phát triển một hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong (Internal Quality Assurance) hiệu quả. Không có mô hình nào phù hợp với tất cả. Chính là các trường đại học cần quyết định mô hình phù hợp nhất với nó. Tuy nhiên, có một số điều kiện cơ bản phải được đáp ứng, có một số kinh nghiệm tại các trường đại học khác cũng nên được sử dụng trong việc phát triển một hệ thống IQA được trang bị bằng các yếu tố cơ bản để theo dõi, phán đoán mức độ hoàn thiện và cải tiến.  Ít nhất hệ thống IQA phải bao gồm chu trình Deming: lập kế hoạch, thực hiện, kiểm tra và cải tiến (PDCA). Những gì xã hội chứng kiến và biết được về kiểm định và công nhận chất lượng chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm hệ thống đảm bảo chất lượng và là giai đoạn cuối của quy trình đảm bảo chất lượng giáo dục đại học.

Chuyển sang khâu đảm bảo chất lượng bên ngoài sẽ nảy sinh một mâu thuẫn giữa việc lập chuẩn và tính tự chủ, sáng tạo của các trường đại học và sự phân kỳ của hệ thống trong giáo dục 4.0 bên ngoài sẽ nảy sinh một mâu thuẫn giữa việc lập chuẩn và tính tự chủ, sáng tạo của các trường đại học và sự phân kỳ của hệ thống trong giáo dục 4.0

 Rõ ràng là cần thiết phải có các tiêu chuẩn và tiêu chí để có thể đánh giá hệ thống đảm bảo chất lượng. Một trường đại học sẽ thiết lập các tiêu chuẩn riêng của mình, nhưng làm như vậy, họ phải tính đến các tiêu chí và tiêu chuẩn được đặt ra ở thế giới bên ngoài khi họ muốn mở rộng quy mô và tầm hoạt động của cơ sở giáo dục. Mặt khác, hệ thống chuẩn cũng phải chuyển từ đánh giá tổng kết (summative) sang đánh giá quá trình (formative) để thích hợp với đặc điểm của giáo dục 4.0

 Phân tích những đặc điểm cơ bản của Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học cũ do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2007 với 10 tiêu chuẩn, 61 tiêu chí (có hiệu lực đến hết tháng 6 năm 2018) cho thấy, bộ tiêu chuẩn này thiên về định hướng đánh giá tổng kết hoạt động của một trường đại học trong 5 năm, trong khi Bộ tiêu chuẩn mới với 25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí ban hành theo Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017 đang được triển khai đã chú trọng nhiều hơn đến đánh giá quá trình thông qua việc sử dụng chu trình PDCA cho 3 cấp đảm bảo chất lượng trong cơ sở giáo dục: chiến lược, hệ thống và chức năng (21/25 tiêu chuẩn).

Theo Bộ tiêu chuẩn mới, các trường đại học cho dù có quyền tự chủ cao thì vẫn phải chấp nhận một “luật chơi chung” có tính khuôn khổ mà các bên liên quan bao gồm cả xã hội và Nhà nước đã xây dựng và công nhận. Ban hành một chuẩn có tính khung như thế không những không hạn chế tính chủ động của hệ thống giáo dục đại học mà còn đòi hỏi các trường luôn sáng tạo và đổi mới trong chiến lược, cấu trúc hệ thống và chức năng để thu được những kết quả ngày càng tốt hơn. Điều bất biến mà Bộ tiêu chuẩn đòi hỏi chính là ở kết quả phải gia tăng ở cả 4 khâu: đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng và hoạt động tài chính. Điều vạn biến chính là ở sự sáng tạo trong công tác quản trị của mỗi cơ sở giáo dục và việc xây dựng mô hình phát triển mà cơ sở giáo dục theo đuổi.

 Cuối cùng là công tác kiểm định và công nhận.

Khi đã có những chuẩn khung thì việc đánh giá ngoài phải dựa vào những tổ chức chuyên nghiệp, những chuyên gia có năng lực và am hiểu về giáo dục đại học để thẩm định, đánh giá và phán xét sự đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng qua các báo cáo tự đánh giá của cơ sở giáo dục cũng như những thông tin mà họ cung cấp trong các báo cáo giải trình và trách nhiệm và thu được khi khảo sát trực tiếp.

Cuối cùng, từ việc phân tích những nội dung cơ bản của khái niệm tự chủ, khái niệm giải trình và chịu trách nhiệm của một trường đại học – một khái niệm không thể tách rời với khái niệm tự chủ cả về lý luận và thực tiễn; và những quan điểm cơ bản của mô hình đảm bảo chất lượng đang được triển khai trong khu vực và ở nước ta chúng ta đã có cơ sở để trả lời câu hỏi nghiên cứu: Kiểm định chất lượng giáo dục không phải là một cách hạn chế tự chủ của các  trường đại học. kiểm định chất lượng giáo dục là một phương thức giám sát của Nhà nước và xã hội đối với việc thực hiện quyền tự chủ và việc giải trình của cơ sở giáo dục, đồng thời là công cụ quản lý hiệu quả của một trường đại học đáp ứng các yêu cầu đa dạng, đa phương từ Nhà nước và xã hội trên cơ sở xây dựng một mô hình đảm bảo chất lượng bên trong thích hợp và hiệu quả

2.3.2. Chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam

Thứ nhất là tự chủ học thuật. Theo điều 35 của Điều lệ trường đại học năm 2014, các trường đại học của Việt Nam có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc xây dựng, thẩm định, và ban hành chương trình đào tạo. Theo Khoản 3, Điều 32 của Luật số: 34/2018/QH14, các trường đại học của Việt Nam có quyền tự chủ trong học thuật cũng như trong quá trình hoạt động chuyên môn.

 Quá trình này bao gồm các hoạt động chủ yếu là ban hành và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn và chính sách chất lượng trong giáo dục và đào tạo, mở ngành đào tạo, tuyển sinh đầu vào, tổ chứ thực hiện các chương trình đào tạo đã được thẩm định và thông qua, triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ đào tạo và thực tiễn cuộc sống và tiến hành hợp tác với các bên liên quan cả trong lẫn ngoài nước để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và cải thiện điều kiện làm việc của chính mình trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Theo Khoản 2, 3, 4, Điều 33 của Luật số: 34/2018/QH14, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chi tiết điều kiện mở ngành đào tạo, nhưng các cơ sở giáo dục đại học tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh, công bố công khai chỉ tiêu tuyển sinh, chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt nghiệp, bảo đảm chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo đã công bố. Theo Điều 5 của Điều lệ trường đại học năm 2014, các trường đại học có quyền quyết định phương thức tuyển sinh và phát triển chương trình đào tạo, tổ chức biên soạn hoặc lựa chọn giáo trình giảng dạy phù hợp với mục tiêu đào tạo của từng chương trình đào tạo phù hợp, in phôi văn bằng, quản lý và cấp bằng, chứng chỉ cho người học theo quy định của pháp luật.

Thứ hai là tự chủ cơ cấu tổ chức bộ máy và công tác nhân sự. Theo Điều 5 của Điều lệ trường đại học năm 2014, các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam có quyền tự quyết định thành lập cơ cấu tổ chức bộ máy, phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, đội ngũ nghiên cứu, và cán bộ phục vụ đào tạo dựa trên cơ sở chiến lược hành động và quy hoạch phát triển của nhà trường. Theo Khoản 4, Điều 32 của Luật Giáo dục đại học năm 2018, quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm, tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật. Theo Điều 32 của Luật sửa Luật số: 34/2018/QH14, các trường đại học Việt Nam có quyền tự chủ trong cơ cấu tổ chức bộ máy và công tác nhân sự. Trong số này, quan trọng nhất là ban hành các văn bản quy định và tổ chức thực hiện quyết định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ đãi ngộ cho từng vị trí việc làm cụ thể, tuyển dụng, sử dụng, và cho thôi việc đối với các giảng viên, viên chức, và người lao động khác đã hết thời giạn hợp đồng, quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy nhân sự, phương thức quản trị, và biện pháp quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với thực tiễn hiện có và các quy định của hiến pháp và pháp luật. Theo Mục 2, Khoản 2, Điều 32 của Luật Giáo dục đại học năm 2018, các trường đại học phải thực hiện phân quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đến từng đơn vị và cá nhân trong các cơ sở giáo dục đại học.

Thứ ba là tự chủ tài chính. Theo Điều 5 của Điều lệ trường đại học năm 2014, các trường đại học có quyền tự quyết định chế độ thu chi tài chính và đầu tư phát triển để thực hiện các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo theo quy định của pháp luật, tự quyết định mức thu học phí tương ứng với điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo của các chương trình đào tạo chất lượng cao, và các quy định về tự chủ tài chính đối với các trường đại học. Theo Khoản 5, Điều 32 của Luật số: 34/2018/QH14, các trường đại học Việt Nam có quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính cũng như tài sản, có các biện pháp phù hợp để thu hút các nguồn vốn đầu tư cho phát triển, nhưng đồng thời phải thực hiện các chính sách học phí và học bổng cho sinh viên cũng như các chính sách khác phù hợp với thực tiễn địa phương và các quy định của pháp luật. Theo Điểm a, Khoản 2, Điều 65 của Luật số: 34/2018/QH14 năm 2018, cơ sở giáo dục đại học tự bảo đảm toàn bộ kinh phí chi thường xuyên được tự chủ xác định mức thu học phí cho trường mình.

Các cơ sở giáo dục đại học tư thục được tự chủ quyết định mức thu học phí. Mức thu dịch vụ tuyển sinh và các khoản thu dịch vụ khác được xác định trên nguyên tắc tính đủ chi phí hợp lý thực tế phát sinh. Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục đại học phải công bố công khai các chi phí đào tạo, mức thu học phí, mức thu dịch vụ tuyển sinh cũng như các khoản thu dịch vụ khác cho lộ trình cả khóa học và từng năm học cùng với thông báo tuyển sinh và trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm trích một phần các nguồn thu học phí để hỗ trợ cho các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn và các vấn đề xã hội thiết yếu khác. Theo Khoản 6, Điều 66 của Luật số: 34/2018/QH14, Chính phủ quy định chi tiết mức độ tự chủ tài chính của cơ sở giáo dục đại học công lập, cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học.

 Các cơ sở giáo dục đại học công lập tự bảo đảm toàn bộ kinh phí chi thường xuyên, thì hội đồng trường và hội đồng đại học có quyền quyết định việc sử dụng các nguồn lực tài chính của trường. Các trường đại học của Việt Nam được nhà nước đặt hàng thực hiện các nhiệm vụ có liên quan và gắn liền với các nguồn thu từ ngân sách nhà nước để thực các điều khoản đã được thống nhất có trách nhiệm quản lý và sử dụng các nguồn ngân sách nhà nước theo các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quản lý hệ thống tài chính công và tài sản công.

Thứ tư, Tự chủ cơ sở vật chất:

Theo Điều 66 của Luật số: 34/2018/QH14, tài sản của cơ sở giáo dục đại học công lập được quản lý và sử dụng theo nguyên tắc quản lý và sử dụng tài sản công của nhà nước. Cơ sở giáo dục đại học được sử dụng tài sản công vào việc kinh doanh, cho thuê, liên doanh, và liên kết theo quy định của pháp luật nhằm mục đích phát triển giáo dục đại học và theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển những gì đang có một cách phù hợp nhất có thể với môi trường giáo dục đại học. Tài sản của các cơ sở giáo dục đại học tư thục và các cơ sở giáo dục đại học tư thục phi lợi nhuận được quản lý và sử dụng theo các nguyên tắc nhất định.

 Theo các quy định này, quyền tự chủ về cơ sở vật chất của các trường đại học công lập được thực hiện trên 3 phương diện chính. Một là quyền được thừa hưởng, sở hữu, và sử dụng tất cả các tài sản hiện có thuộc phạm vi quản lý của nhà trường cho dù được kế thừa, hiến tặng, hay tự phát triển thêm cho đến hiện tại. Hai là quyền được đầu tư và phát triển thêm các hệ thống cơ sở vật chất mới kể cả từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc các nguồn ngân sách tự kiếm để phát triển nhà trường. Ba là có quyền cho thuê hoặc tạo điều kiện sinh lời để tái đầu tư phát triển nhà trường.

Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật đã tạo ra hành lang pháp lí cho quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Tự chủ của các đại học trên các văn bản pháp lí đã có những thay đổi theo hướng các đại học ngày càng được giao nhiều quyền hơn. Quá trình hoàn thiện quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học đã góp phần đưa hệ thống giáo dục đại học Việt Nam bước ra khỏi thời kì khó khăn và đem lại nhiều thành tựu mới.

Mặc dù nhận thức pháp lí về tự chủ đại học có bước tiến lớn, nhưng còn thiếu triệt để, nhất quán, và đồng bộ trong các chủ trương chính sách. Quyền tự chủ được xác lập theo quan niệm “cho” hay “phân” lại quyền hơn là dựa trên địa vị pháp lí độc lập và mặc dù bao quát được nhiều nội dung tự chủ nhưng vẫn còn thiếu một số quyền trọng yếu khác. Vẫn còn tình trạng một số quy định trong các văn bản pháp quy còn chưa thực sự rõ ràng và đầy đủ, nên hiệu quả của các văn bản này chưa được như mong muốn, các quyền tự chủ vẫn chưa thật sự phát huy hết tác dụng. Cùng lúc đó, việc tăng cường quyền tự chủ theo cách cục bộ và dựa trên ưu tiên chính sách ngắn hạn có nguy cơ tạo ra đặc quyền và cơ chế cạnh tranh không lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục đại học. Những bất cập này được xem là một nguyên nhân hạn chế tính tự chủ, kéo theo hạn chế của chất lượng đào tạo. Thực tế quá trình thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học thời gian vừa qua đã chứng minh rằng mặc dù hành lang pháp lý đã có, nhưng thực tiễn triển khai thực hiện không đơn giản như những gì được ghi trong giấy tờ.

2.3.3. Mối quan hệ giữa đảm bảo chất lượng và tự chủ đại học

Theo World Bank, để phát triển thành một đại học nghiên cứu hàng đầu, cần đảm bảo ba yếu tố quyết định là: (i) tập trung nhiều tài năng bao gồm cả cán bộ và người học; (ii) nguồn lực dồi dào để đầu tư phát triển cơ sở vật chất, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài, tạo lập môi trường học tập tốt và triển khai nghiên cứu dẫn đầu; (iii) quản trị thuận lợi (1) theo cơ chế tự chủ cao và dựa trên nền tảng số hóa để tạo lập môi trường làm việc thuận lợi, thúc đẩy tầm nhìn chiến lược, óc sáng tạo và sự năng động, thích ứng nhanh với thay đổi, khả năng quy tụ, phát huy sức mạnh tổng hợp và năng lực điều phối các nguồn lực hiệu quả để đưa ra các quyết sách thúc đẩy sự phát triển của cả hệ thống[13].

Ba yếu tố trên cũng là các điều kiện đảm bảo chất lượng cơ bản nhất, quyết định nhất tới chất lượng của trường đại học. Tự chủ đại học chính là giải pháp cốt yếu để gia tăng các điều kiện đảm bảo chất lượng này. Nếu ví việc trở thành đại học nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam và khu vực là mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững của các cở sở giáo dục đại học thì việc gia tăng các điều kiện đảm bảo chất lượng (về nhân lực, về tài chính, cơ sở vật chất, và về quản trị hệ thống) và triển khai tối ưu mô hình tự chủ đại học chính là hai yếu tố then chốt để thực hiện mục tiêu.

Cả hai yếu tố này có tác động qua lại và gắn bó hữu cơ với nhau. Tự chủ đại học đóng vai trò là phương thức để thực hiện mục tiêu, còn đảm bảo chất lượng là công cụ để thực hiện mục tiêu. Phương thức tự chủ sẽ giúp cơ sở giáo dục đại học chủ động trong việc thiết lập các điều kiện đảm bảo chất lượng, thúc đẩy tốc độ và khối lượng tích lũy các điều kiện đảm bảo chất lượng. Ở chiều tương ứng, việc thiết lập được các điều kiện đảm bảo chất lượng phù hợp sẽ giúp cơ sở giáo dục đại học triển khai được hiệu quả mô hình tự chủ và thực hiện mục tiêu phát triển. Kết quả của mối quan hệ này là chất lượng hoạt động, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của trường đại học được gia tăng mạnh mẽ. Mối quan hệ này được biểu diễn ở hình dưới đây (Salmi. J, 2009).

Hình 2.1. Tự chủ đại học và các điều kiện đảm bảo chất lượng trong mục tiêu hướng đến thực hiện mô hình đại học nghiên cứu xuất sắc

 Như vậy, 3 khía cạnh tự chủ đại học đều gắn với 3 yếu tố đảm bảo chất lượng cốt lõi và cùng hướng đến xây dựng mô hình đại học tự chủ.

2.3.4. Trách nhiệm giải trình thông qua đảm bảo, kiểm định chất lượng

Trong những thập kỷ gần đây, giáo dục đại học ở châu Á đang trong giai đoạn đại chúng hóa, tạo ra khả năng tiếp cận với giáo dục đại học nhưng cũng đồng thời làm tăng mối quan tâm của công chúng về chất lượng của giáo dục và năng lực của người học tốt nghiệp. Điều này đặt ra một số thách thức đối với việc bảo đảm và quản lý chất lượng trong giáo dục đại học. Để đáp ứng xu hướng này, các chính phủ châu Á xác định phát triển hệ thống bào đảm chất lượng, KĐCL quốc gia trong giáo dục đại học, bao gồm cả các kiểm định viên quốc gia và kiểm định viên chuyên nghiệp. Các quốc gia châu Á đã phát triển các hệ thống của riêng họ để thực hiện bảo đảm chất lượng giáo dục đại học của họ theo từng giai đoạn. Ví dụ, ở Indonesia, Cơ quan Công nhận Quốc gia về Giáo dục Đại học (BANPT), với tư cách là một tổ chức công, đã tiến hành đánh giá và công nhận các chương trình và trường đại học theo phương pháp bắt buộc. Phí kiểm định do chính phủ chi trả. Tại Nhật Bản, có quan NIAD-UE đã tiến hành đánh giá trường đại học công bằng cách sử dụng phương pháp áp dụng bắt buộc với chi phí do chính phủ chi trả. Ngược lại, các trường đại học dân lập tự chi trả cho dịch vụ này.

Ở UK, trách nhiệm về tiêu chuẩn và chất lượng thuộc về bản thân các trường đại học tự chủ và Cơ quan bảo đảm chất lượng giáo dục đại học của UK là QAA (cơ quan độc lập kiểm tra các tiêu chuẩn và chất lượng giáo dục đại học của Vương quốc Anh). Điều này giúp thể hiện rõ tính giải trình của cơ sở giáo dục tự chủ bằng cách đảm bảo các bằng cấp người học nhận được đáp ứng với kỳ vọng quốc gia về năng lực người học tốt nghiệp. Quyền tự chủ về học thuật của các cơ sở giáo dục đại học được bảo vệ tích cực và các trường đại học đã sử dụng quyền tự chủ của họ một cách có lợi nhất. Đôi khi cơ sở giáo dục có thể chấp nhận rủi ro như đưa ra các môn học mới hoặc các cơ hội học tập khác với truyền thống. Nhưng họ cũng biết rằng nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ công và nếu họ chấp nhận rủi ro một cách vô trách nhiệm, thì quyền tự do hoạt động của họ có thể bị hạn chế nghiêm trọng. Tại UK, nếu các trường đại học muốn duy trì quyền tự chủ, họ phải chịu trách nhiệm không những về mặt thiết kế mà còn tuân theo các quy định học thuật của họ để đảm bảo chất lượng và tiêu chuẩn (quality codes). Việc cân bằng giữa quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình là một thách thức đáng kể và liên tục đối với các hệ thống giáo dục đại học đang nỗ lực cải tiến trên nhiều lĩnh vực (Trường ĐH Thủ Đô, 2019). Các nhà hoạch định chính sách nhận ra nhu cầu cấp thiết cần phải cải thiện tác động qua lại giữa các cơ chế bảo đảm chất lượng bên ngoài và bên trong để cho phép trường đại học thích ứng với nhu cầu thay đổi của người học và bảo đảm tiếp nhận, khai thác các phản hồi thích hợp trong toàn hệ thống. Các quốc gia cũng ngày càng cho phép các trường đại học tự chủ nhiều hơn để họ có thể đáp ứng tốt hơn bối cảnh địa phương, quốc giá, quốc tế và nhu cầu của từng người học.

Các cơ chế bảo đảm chất lượng bên trong hỗ trợ việc ra quyết định dựa trên thông tin, dữ liệu phục vụ cho việc giải trình nội bộ và đáp ứng sự phát triển của cơ sở giáo dục. Tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá chất lượng của giảng viên là nghiệp vụ dạy học nghiên cứu khoa học, và kết quả học tập của người học. Quy trình đánh giá giảng viên sẽ được thực hiện riêng biệt bởi từng cơ sở giáo dục nhằm phát huy quyền tự chủ của cơ sở giáo dục cũng như nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu nhà trường trong việc bảo đảm chất lượng quá trình giáo dục. Tất cả giảng viên có thể đăng ký đánh giá, lựa chọn mức chất lượng mà họ áp dụng trong từng giai đoạn. Hầu hết các nước Châu Âu đã đưa ra các khung bảo đảm chất lượng để tích hợp một số cơ chế đảm bảo chất lượng bên trong và bên ngoài. Các cơ chế này tạo ra dữ liệu về kết quả hoạt động, chất lượng tổng thể của cơ sở giáo dục và cả hệ thống, được đo lường dựa trên kết quả học tập và các tiêu chuẩn được xác định trong Khung trình độ quốc gia.

3. Thực trạng chính sách và thực tiễn triển khai kiểm định chất lượng giáo dục đại học và tự chủ đại học ở Việt Nam

Luật giáo dục đại học sửa đổi, bổ sung năm 2018 đã mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả của tự chủ đại học trong toàn hệ thống. Trong đó, quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học trong việc xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học.

Trên thực tế, các cơ sở giáo dục đại học tự chủ đã được giao nhiều quyền hơn trong các lĩnh vực, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Tự chủ đại học gắn liền với trách nhiệm giải trình và tự chịu trách nhiệm. Nhà nước tạo ra cơ chế bảo đảm cho cơ sở giáo dục thực hiện được trách nhiệm cao nhất đối với xã hội, và cơ chế đó chính là cơ chế giải trình trách nhiệm của các trường thông qua việc kiểm định độc lập, chịu sự giám sát của toàn xã hội. Cơ sở giáo dục chịu trách nhiệm trước người học, chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan về việc bảo đảm chất lượng đào tạo theo quy định của pháp luật, quy định nội bộ và cam kết của cơ sở giáo dục đại học. Đồng thời công khai kết quả KĐCL chương trình đào tạo, kết quả KĐCL cơ sở giáo dục đại học.

 Luật giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 nhấn mạnh chủ trương tăng cường tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát hợp lý chất lượng đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các chỉ thị về nhiệm vụ chủ yếu và các giải pháp để thực hiện các nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục. Một trong số đó là nhóm giải pháp tăng cường công tác khảo thí, kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục; công khai điều kiện đảm bảo chất lượng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục theo quy định; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hoạt động kiểm định chất lượng đối với các cơ sở giáo dục và các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục.

Theo cập nhập tính đến 30/6/2021 của Cục Quản lý chất lượng -Bộ Giáo dục và đào tạo, đã thống kê về tự đánh giá, đánh giá ngoài và công nhận tiêu chuẩn chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo cụ thể: Về cơ sở giáo dục đã có 235 cơ sở giáo dục đại học và 28 trường cao đẳng đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá. Trong đó đã có 160 cơ sở giáo dục đại học và 10 trường cao đẳng được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn trong nước và 07 cơ sở giáo dục đại học được đánh giá theo tiêu chuẩn nước ngoài. Về đánh giá chương trình đào tạo, đến 30/6/2021, trên cả nước có 457 chương trình được đánh giá, bao gồm 241 chương trình của 56 cơ sở giáo dục đại học đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục (theo tiêu chuẩn trong nước) và 216 chương trình đánh giá theo tiêu chuẩn nước ngoài.

Bên cạnh đó, đã có 23 cơ sở giáo dục công lập được giao thực hiện tự chủ theo NQ 77/NQ-CP, có 22 cơ sở giáo dục đã được KĐCL (02 cơ sở giáo dục được KĐCL quốc tế). Kết quả thực hiện tự chủ đã được các chuyên gia đánh giá dựa trên báo cáo thực tiễn tại Hội thảo quốc gia về giáo dục VEC 2020: “Tự chủ trong giáo dục đại học-từ chính sách đến thực tiễn. Theo Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn cho rằng, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học tham gia thí điểm tự chủ đều đã có sự bứt phá về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tạo diện mạo mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Theo kết quả thí điểm tự chủ của 23 đơn vị (tính từ năm 2014 đến năm 2017), tỷ lệ tuyển sinh tăng từ 87% lên 92%; số chương trình đào tạo được kiểm định tăng từ 1 lên 100; nhiều cơ sở giáo dục đại học Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng đại học uy tín của châu Á và thế giới (3 đại học được xếp hạng Top 1000 đại học tốt nhất thế giới (Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Tôn Đức Thắng) và 1 đại học Top 1000+ (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) trong 2 bảng xếp hạng danh giá nhất (ARWU, THE)). Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn nhiều cơ sở chưa có chuyển biến về chất lượng đào tạo; sinh viên còn thiếu kỹ năng; tỷ lệ tuyển sinh ở một số trường thấp… Theo Giáo sư Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Học viện Nông nghiệp Việt Nam, nguyên nhân cơ bản là do nhiều trường vẫn quen được ngân sách “nuôi”, khi thực hiện tự chủ còn lúng túng. Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Thị Lan Anh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội, hệ thống quy định về tự chủ chưa đồng bộ, nên khó khăn khi thực thi. Một số trường chỉ chú trọng đến vấn đề tự chủ tài chính, bằng mọi giá tăng nguồn thu từ học phí, bỏ qua trách nhiệm xã hội, làm giảm cơ hội học tập của những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn… Qua đánh giá các chuyên gia cho thấy, việc tự chủ đại học đã có tác động đến chất lượng giáo dục. Những đơn vị thực hiện tốt quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm đa số sẽ đảm bảo được chất lượng giáo dục. Các chỉ số như tỉ lệ tuyển sinh, chương trình kiểm định đều tăng, đặc biệt được xếp hạng Top 1000 đại học tốt nhất thế giới. Ngược lại một số đơn vị chưa làm tốt công tác tự chủ, còn lúng túng, chủ yếu chú trọng thu học phí, chưa làm tốt công tác giải trình thì việc đảm bảo chất lượng chưa cao[1]. Theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, sau ba năm triển khai, đến nay có 23 trường đại học công lập được thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77. Các trường thí điểm tự chủ đã có cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý hơn, tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư tăng. Về tài chính, tổng thu giai đoạn tự chủ của các trường so với giai đoạn trước tự chủ tăng 16,6%; nguồn ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động thường xuyên và không thường xuyên giảm 16,51%, nhưng nguồn cho xây dựng cơ bản tăng 85,1%. Cơ cấu chi của các trường thí điểm tự chủ có thay đổi, trong đó tăng khoảng 40% chi học bổng cho sinh viên… (Báo Nhân dân, 2017). Ngoài ra theo báo cáo của nhóm nghiên cứu, số đề tài khoa học công nghệ được phê duyệt từ 2013 – 2016 nhìn chung tăng lên. Tổng số đề tài trung bình hàng năm khoảng 500 đề tài. Số lượng các công trình được công bố của 12 trường tự chủ cũng tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2013 – 2016, trong đó số lượng bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên môn nước ngoài tăng từ 574 bài năm 2013 lên 1437 bài năm 2016 (Trung tâm Truyền thông giáo dục, 2017).

Trên cơ sở nghiên cứu báo cáo tự đánh giá của 01 trường tự chủ và 03 trường chưa tự chủ tác giả nhận thấy, trong báo cáo tự đánh giá của một số trường đã chỉ ra hạn chế ở nhất định như: Sứ mạng, tầm nhìn chưa thật sự được dùng làm căn cứ liên kết chặt chẽ và định hướng cho xây dựng kế hoạch chiến lược và chính sách; Quản trị chiến lược chưa tiếp cận sâu bằng công cụ quản trị mục tiêu, chỉ tiêu; Hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong chưa hoàn thiện, chưa có chính sách thúc đẩy các hoạt động đảm bảo chất lượng đáp ứng mục tiêu chiến lược; Đào tạo theo chuẩn đầu ra chưa được thiết kế và thực hiện phù hợp; Các chỉ số thực hiện trong Nghiên cứu khoa học chưa được xây dựng phù hợp; Mức độ tác động của hoạt động kết nối và phục vụ cộng đồng chưa được phân tích, giám sát, đối sánh. Để tìm hiểu cụ thể thực trạng trên, tác gải đã thống kê phân tích kết quả KĐCL của 01 cơ sở giáo dục được giao tự chủ so với 03 cơ sở giáo dục chưa tự chủ. Kết quả được thể hiện qua Biểu đồ dưới đây  (Trường ĐH Thủ Đô, 2019; Trường ĐH Công nghiệp TP. HCM, 2015; Trường ĐH Sư phạm TDTT, 2017; Trường Đại học Thủy lợi, 2018).

Ghi chú các tiêu chí:

TC1: Tiêu chuẩn 1: Tầm nhìn, sứ mạng và văn hóa

TC2: Tiêu chuẩn 2: Quản trị

TC3: Tiêu chuẩn3: Lãnh đạo và quản lý

TC4: Tiêu chuẩn 4: Quản trị chiến lược

TC5: Tiêu chuẩn5: Các chính sách về đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng

TC6: Tiêu chuẩn6: Quản lý nguồn nhân lực

TC7: Tiêu chuẩn7: Quản lý tài chính và cơ sở vật chất

TC8: Tiêu chuẩn 8: Các mạng lưới và quan hệ đối ngoại

TC9: Tiêu chuẩn 9: Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong

TC10: Tiêu chuẩn 10: Tự đánh giá và đánh giá ngoài

TC11: Tiêu chuẩn 11: Hệ thống thông tin đảm bảo chất lượng bên trong

TC12: Tiêu chuẩn 12: Nâng cao chất lượng

TC13: Tiêu chuẩn 13: Tuyển sinh và nhập học

TC14: Tiêu chuẩn 14: Thiết kế và rà soát chương trình dạy học

TC15: Tiêu chuẩn 15: Giảng dạy và học tập

TC16: Tiêu chuẩn 16: Đánh giá người học

TC17: Tiêu chuẩn 17: Các hoạt động phục vụ và hỗ trợ người học

TC18: Tiêu chuẩn 18: Quản lý nghiên cứu khoa học

TC19: Tiêu chuẩn 19: Quản lý tài sản trí tuệ

TC20: Tiêu chuẩn 20: Hợp tác và đối tác nghiên cứu khoa học

TC21: Tiêu chuẩn 21: Kết nối và phục vụ cộng đồng

TC22: Tiêu chuẩn 22: Kết quả đào tạo

TC23:  Tiêu chuẩn 23: Kết quả nghiên cứu khoa học

TC24: Tiêu chuẩn 24: Kết quả phục vụ cộng đồng

TC25: Tiêu chuẩn 25: Kết quả tài chính và thị trường

Biểu đồ 3.1. Kết quả KĐCL trong nước (TT 12 từ TC1 đến TC 13)

Biểu đồ 3.2. Kết quả KĐCL trong nước (TT 12 từ TC14 đến TC 25)

Qua biểu đồ 3.1 và 3.2 cho thấy đa số các Tiểu chuẩn từ TC1 đến TC 13 thì điểm đánh giá ở các cơ sở giáo dục được giao tự chủ đều cao hơn các cơ sở giáo dục chưa được giao quyền tự chủ. Đối với các trường tự chủ điểm đánh giá từ: 3.6 đến 4.93 trong khi ở các trường chưa giao quyền tự chủ thì điểm đánh giá từ 4.21. Trong 25 tiêu chuẩn thì 21/25 tiêu chuẩn chiếm 84% các cơ sở giáo dục được giao quyền tự chủ cao hơn so với cơ sở giáo dục chưa được giao quyền tự chủ. Tiêu chuẩn có sự chênh lệch cao nhất là TC 9 trong đó các trường tự chủ được đánh giá điểm đạt 4.93 so các trường chưa tự chủ đật điểm 3,99. Điều đó cho thấy khi các trường được giao quyền tự chủ thì các hoạt động nhà trường sẽ hiệu quả hơn các nhà trường chưa được tự chủ. Đó là tác động tích cực của cơ chế tự chủ đến kiểm định chất lượng. Tuy nhiên vẫn còn một số Tiêu chuẩn như: Tiêu chuẩn 12 nâng cao chất lượng, Tiêu chuẩn 21 Kết nối và phục vụ cộng đồng, Tiêu chuẩn 22 Kết quả đào tạo các cơ sở giáo dục chưa được tự chủ được đánh giá điểm cao hơn. Hiện nay, các trường được giao quyền tự chủ đa số các trường đại học lớn, có đủ tiềm lực, họ đưa ra các mục tiêu rất cao về chất lượng về đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng, chính vì vậy khi đánh giá tiêu chuẩn này với mục tiêu đề của các cơ sở đề ra thì Tiêu chuẩn này còn những hạn chế. Qua phân tích trên cho thấy, mối quan hệ giữa kiểm định chất lượng và tự chủ đại học, chính từ mối quan hệ này lãnh đạo các đơn vị giáo dục chưa được giao quyền tự chủ tiếp tục có kế hoạch thực hiện quyền được tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của mình. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục được giao quyền tự chủ thông qua kiểm định chất lượng (tự đánh giá và đánh giá ngoài) nhìn ra những hạn chế cần cải tiến để nâng cao chất lượng đào tạo đạt mục tiêu đề ra.

4. Một số biện pháp hoàn thiện chính sách, triển khai có hiệu quả kiểm định chất lượng giáo dục và tự chủ đại học

Thứ nhất, hoàn thiện các hướng dẫn theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học mới ban hành; rà soát, sửa đổi, bổ sung trình cấp có thẩm quyền ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ giáo dục đào tạo và thực hiện cơ chế tự chủ. Bên cạnh đó, tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi thẩm quyền liên quan đến tự chủ đại học nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ cho các trường đại học thực hiện cơ chế tự chủ. Trước mắt tập trung vào việc rà soát, sửa đổi, ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ trong khi chờ đợi sự điều chỉnh về luật và các nghị định.

Thứ hai, rà soát, đánh giá sự phù hợp của Luật đầu tư công với cơ chế tự chủ giáo dục đại học. Việc đầu tư cho các trường nên áp dụng cơ chế trọn gói và theo dự án. Các dự án quy mô lớn, cần sự hỗ trợ của nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần hướng dẫn cơ sở Giáo dục đại học tự chủ đề xuất dự án đầu tư để thẩm định, tổng hợp vào kế hoạch đầu tư công trung hạn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định và hàng năm bố trí kế hoạch vốn đầu tư cho cơ sở Giáo dục đại học tự chủ để triển khai thực hiện

Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam để từng bước xây dựng hệ thống KĐCL độc lập; nên có quỹ KĐCL để hỗ trợ tài chính cho các tổ chức KĐCL; tăng cường năng lực xây dựng chiến lược phát triển, tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt động của tổ chức KĐCL giáo dục đại học, đồng thời tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động của các tổ chức KĐCL trên nguyên tắc tôn trọng tính độc lập của các tổ chức này.

Thứ tư, bản chất của KĐCL được coi là hoạt động của xã hội để giám sát việc thực hiện trách nhiệm giải trình và việc thực hiện quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục cho nên cần có cơ chế của chính phủ thông qua tự chủ đại học để có nguồn tài chính phù hợp cho các cơ sở giáo dục xây dựng các mô hình bảo đảm chất lượng rõ ràng với các quy định để phát triển bảo đảm chất lượng bên trong, cải thiện chất lượng đáp ứng yêu cầu của tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, cán bộ công tác bảo đảm chất lượng, KĐCL, tạo động lực mạnh mẽ cho các cơ sở giáo dục triển khai hoạt động tự đánh giá và đăng ký KĐCL trong nước và quốc tế đối với cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo.

Thứ năm, tiếp tục phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ công tác bảo đảm chất lượng; chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ; tăng cường hợp tác, trao đổi chuyên môn với các cơ sở giáo dục trong nước và nước ngoài.

Thứ sáu, việc nâng cao nhận thức của các cơ sở giáo dục đại học về đảm bảo chất lượng cần tiếp tục được quan tâm chú ý đến. Cục Quản lý chất lượng tăng cường tổ chức hội thảo và hội nghị về đánh giá và đảm bảo chất lượng cho lãnh đạo các trường, các nhà quản lý, giảng viên, cán bộ hỗ trợ và sinh viên. Các cơ sở giáo dục cần tích cực phát triển các chương trình của riêng họ để nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên và sinh viên về vai trò và lợi ích của đảm bảo chất lượng đối với sự tồn tại và phát triển của cơ sở giáo dục.

5. Kết luận

Tự chủ đại học luôn đi kèm với tăng cường năng lực giải trình và chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học (mà không phải là năng lực thực hiện tự chủ). Vậy ai sẽ là người thay mặt xã hội thực hiện việc giám sát việc “giải trình và chịu trách nhiêm” của một trường tự chủ. Trong thực tế, có một mối quan hệ giữa tự chủ, nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm của các trường ĐH và hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đang được triển khai tại Việt Nam. Đây không chỉ là vấn đề riêng của hệ thống giáo dục ĐH của nước ta mà còn là mối quan tâm chung của các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục ĐH trên thế giới. Trên cơ sở đưa ra các khái niệm về kiểm định chất lượng, tự chủ đại học, một số chính sách kiểm định chất lượng và tự chủ đại học ở Việt Nam, đặc biệt mối quan hệ giữa đảm bảo chất lượng và tự chủ đại học qua đó khẳng định tự chủ đại học đều gắn với 3 yếu tố đảm bảo chất lượng cốt lõi và cùng hướng đến xây dựng mô hình đại học tự chủ. Từ đó tác giả đã phân tích đánh giá thực trạng chính sách và thực tiễn triển khai kiểm định chất lượng giáo dục đại học và tự chủ đại học ở Việt Nam. Qua đó cho thấy việc ban hành chính sách và triển khai kiểm định chất lượng và tự chủ đạt học đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định như: Hành lang pháp lý về kiểm định chất lượng và tự chủ đại học chưa đồng bộ, kết quả kiểm định chất lượng chưa được các cơ sở giáo dục sử dụng hiệu quả để tăng hiệu quả quản lý chất lượng giáo dục, các nguồn lực tài chính, nhân lực cho hoạt động bảo đảm chất lượng, KĐCL chưa rõ ràng dẫn đến sự khó khăn của các cơ sở giáo dục và các tổ chức KĐCL trong việc triển khai các hoạt động…Tác giả đã đề xuất 6 biện pháp nhằm khắc phục hạn chế, bất cập đó nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình về chất lượng của các trường đại học đối với xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017 quy định: Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học

Báo Nhân dân, 2017, Tổng kết việc thí điểm tự chủ trong giáo dục đại học công lập, truy cập tại: https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/tong-ket-viec-thi-diem-tu-chu-trong-giao-duc-dai-hoc-cong-lap-307111

Chính phủ (2014), Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017

European ideas for better learning: the governance of school education systems – The final report and thematic outputs of the ET2020 Working Groups Schools (2016 – 2018)

Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 

Thủ tướng (2014), Quyết định Số: 70/2014/QĐ-TTg của Thủ tường Chính phủ ngày 10/12/2014 ban hành Điều lệ trưởng Đại học

Trường ĐH Thủ Đô. (2019). Báo cáo Tự đánh giá chất lượng trường Đại học Thủ đô Hà Nội theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Giai đoạn đánh giá:2015-2019, truy cập tại: https://hnmu.edu.vn/phong-khao-thi-dam-bao-chat-luong-giao-duc/bao-cao-tu-danh-gia-chat-luong-truong-dai-hoc-thu-do-ha-noi.html

Trường ĐH Công nghiệp TP. HCM (2015). Báo cáo tự đánh giá, truy cập tại: http://www.hui.edu.vn/vi/phong-khao-thi-va-dam-bao-chat-luong-fi41/bao-cao-tu-danh-gia-a1254.html

Trường ĐH Sư phạm TDTT. (2017). Báo cáo tự đánh giá, truy cập tại https://hupes.edu.vn/bao-cao-tu-danh-gia.html

Trường Đại học Thủy lợi. (2018). Báo cáo tự đánh giá, truy cập tại: http://www.tlu.edu.vn/kiem-dinh-truong/bao-cao-tu-danh-gia-ver-3-0-9668

Trung tâm Truyền thông giáo dục. (2017). Hội nghị tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, Truy cập tại: https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-bo.aspx?ItemID=5124

Nguyễn Trọng Tuấn. (2018). Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến Sỹ Luật học, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trang 24

Quốc hội. (2012). Luật Giáo dục đại học 2012 (sửa đổi bổ sung 2019)

Salmi, J. (2009). The challenge of establishing world-class universities. Washington, DC: The World Bank.    

Nguyễn Như Ý. (1998). Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB XBVHTT, Hà Nội, trang 1762

Theo Nguyễn Văn Hưng. (2021), Sách chuyên khảo “Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ đại học: Lý luận và thực tiễn”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

Leave a reply

https://unihub.vnu.edu.vn/
https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2016/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2017/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2021/ https://unihub.vnu.edu.vn/wp-content/uploads/2022/