1. Đặt vấn đề
Nhân loại đã bước qua thế kỷ XXI được hơn hai thập niên với đầy những biến động về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, môi trường… Đây cũng là một thế kỷ có nhiều bước đột phá trong lĩnh vực khoa học công nghệ thông tin. Tất cả những điều đó đã đặt ra cho công tác quản lý của ngành giáo dục của các nước trên thế giới là phải đưa ra cách quản lý sao cho hiệu quả phù hợp với xu thế chung của thời đại và tình hình của đất nước mình, nhằm tạo ra những con người có đủ năng lực ứng phó với mọi sự biến đổi của hoàn cảnh trong nước và thế giới.
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, về khoa học – công nghệ và xu thế toàn cầu hoá đang đặt ra nhiều thách thức và cơ hội cho đất nước, Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định: “Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) cùng với khoa học và công nghệ (KH&CN) là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và đề ra định hướng phát triển cho giáo dục là: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên” (Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2006). Đối với vấn đề quản lý giáo dục, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016) của Đảng đã xác định “Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, về chất lượng hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân” (Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2016). Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đã đưa ra định hướng phát triển GD&ĐT giai đoạn 2021 – 2030 với nhiều vấn đề, một trong những vấn đề đó là: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương GD&ĐT cùng với KH&CN là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế – xã hội, KH&CN, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. (Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2021)
GD&ĐT là khâu then chốt nhất nhằm tạo ra nguồn nhân lực thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục thì đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục (CB QLGD) các cấp là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quyết định trong việc biến mục tiêu giáo dục thành hiện thực, quyết định hiệu quả và chất lượng giáo dục. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường thì một trong các khâu then chốt là phải nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên (GV) nói riêng và đội ngũ viên chức trong nhà trường nói chung. Vấn đề đào tạo phát triển đội ngũ GV trong nhà trường, đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) hiện nay đang được Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân quan tâm. Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt mục tiêu: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH), hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế QLGD, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước”. (Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, 2013).
Đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH,CĐ là một trong những vấn đề đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ các quốc gia, các tổ chức và đặc biệt là các cơ sở đào tạo trong nhiều năm qua. Đánh giá chất lượng giáo dục ĐH,CĐ được xem xét ở nhiều tiêu chuẩn khác nhau như chất lượng chương trình đào tạo, chất lượng cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự giảng dạy, nhân sự hỗ trợ người học, các biện pháp cải tiến chất lượng,… Trong đó, xây dựng đội ngũ GV đảm bảo về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu đào tạo và thực hiện mục tiêu chiến lược của mỗi trường ĐH,CĐ được xem là một trong những yêu cầu quan trọng. Có nhiều tiêu chuẩn mang tính quốc tế, vùng, quốc gia và mang tính đặc thù của từng trường đã và đang được áp dụng để đánh giá được chất lượng đào tạo của nhà trường nói chung, bao gồm đánh giá chất lượng đội ngũ GV. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao chất lượng nhằm đảm bảo theo “Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường cao đẳng” (Quyết định số: 08/VBHN-BGDĐT của Bộ GD&ĐT ban hành ngày 04 tháng 3 năm 2014) là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) địa phương nói chung và trường CĐSP Quảng Trị nói riêng. Từ nhận thức trên, việc tăng cường hơn nữa công tác phát triển đội ngũ GV của trường CĐSP Quảng Trị nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, xây dựng thương hiệu của nhà trường là điều quan trọng mang tính chất cấp thiết hiện nay. Bài báo nhằm phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ GV tại trường CĐSP Quảng Trị, đề xuất các giải pháp nhằm phát triển đội ngũ GV, đáp ứng nhu cầu đủ về số lượng, đồng bộ và hợp lý về cơ cấu, chuẩn về chất lượng đảm bảo yêu cầu của tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục.
2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp khác như: Phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh… Từ đó, tìm ra nguyên nhân, giải pháp cho mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ GV đảm bảo tiêu chí của kiểm định chất lượng giáo dục tại trường CĐSP Quảng Trị.
3. Tổng quan nghiên cứu lý thuyết
3.1. Khái niệm giảng viên và đội ngũ giảng viên trong trường đại học, cao đẳng
3.1.1. Khái niệm giảng viên
Theo Hoàng Phê (2003), GV là tên gọi chung của người làm công tác giảng dạy ở các trường chuyên nghiệp, các lớp đào tạo, huấn luyện, các trường trên bậc phổ thông (Phê, 2003).
Theo Điều 66 của Luật Giáo dục (2019) thì nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên (Quốc hội, 2010).
Từ căn cứ trên tác giả đưa ra khái niệm: Giảng viên là khái niệm chỉ người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục ĐH,CĐ hoặc tương đương.
3.1.2. Khái niệm đội ngũ giảng viên
Theo Hoàng Phê (2003), đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng như đội ngũ những người viết văn, đội ngũ nhà giáo (Phê, 2003).
“Đội ngũ” được hiểu chung nhất là tập hợp một số đông người cùng đặc điểm chức năng hoặc nghề nghiệp đựợc tổ chức thành một lực lượng xã hội cùng thực hiện một mục đích nhất định.
Từ căn cứ trên tác giả đưa ra khái niệm: “Đội ngũ giảng viên” là một khái niệm chỉ một tập hợp gồm nhiều người cùng chức năng, nhiệm vụ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ hoặc tương đương. Nói theo danh xưng hàng ngày thì đội ngũ GV chính là các thầy giáo, cô giáo đang làm công tác giảng dạy, giáo dục và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ hoặc tương đương.
3.2. Khái niệm chất lượng đội ngũ giảng viên và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
3.2.1. Chất lượng đội ngũ giảng viên
“Chất lượng đội ngũ GV” là khái niệm chỉ mức độ một tập hợp các đặc tính vốn có, thể hiện bản chất, đặc trưng cơ bản của nhiều người cùng chức năng, nhiệm vụ làm công tác giảng dạy, nghiên cứu hay còn gọi là các thầy giáo, cô giáo với tư cách là chủ thể của hoạt động giảng dạy trong các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ hoặc tương đương, đáp ứng các yêu đặt ra của ngành giáo dục trong từng thời kỳ khác nhau.
3.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
“Nâng cao chất lượng đội ngũ GV” là khái niệm chỉ mức độ cao hơn của một tập hợp các thuộc tính vốn có, thể hiện bản chất, đặc trưng cơ bản, cấu thành nên đội ngũ GV với tư cách là chủ thể của quá trình giảng dạy, nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ hay tương đương nhằm để đáp ứng ngày càng cao hơn các yêu cầu đặt ra của ngành giáo dục so với trước đây.
3.3. Tiêu chí đánh giá nâng cao chất lượng đội ngũ GV trong các trường ĐH,CĐ
3.3.1. Tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống
Theo Chương II của Quy định về đạo đức nhà giáo kèm theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ GD & ĐT ban hành ngày 16 tháng 7 năm 2008, thì đạo đức nhà giáo được quy định như sau: (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2008).
– Phẩm chất chính trị
+ Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
+ Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức; có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội.
– Đạo đức nghề nghiệp
+ Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
+ Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành.
+ Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
+ Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
– Lối sống, tác phong
+ Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
+ Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
+ Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
+ Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học.
+ Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
+ Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.
– Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
+ Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân.
+ Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
+ Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
+ Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác.
+ Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.
+ Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.
+ Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.
+ Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng.
+ Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cưong, nề nếp của nhà trường.
+ Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như: cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại.
3.3.2. Tiêu chí về năng lực giảng dạy
Một trong những chức năng rất quan trọng của trường đại học là truyền đạt kiến thức. Chức năng này không thể đánh giá tách rời với chức năng nghiên cứu khoa học (NCKH). Một GV giỏi phải là người biết kích thích tính tò mò học hỏi của sinh viên (SV) bằng cách hướng SV đến những phát hiện nghiên cứu mới nhất và những tranh luận thuộc về chuyên ngành của họ. Muốn giảng dạy có hiệu quả thì cần phải kết hợp với hoạt động NCKH. Không thể có một GV tốt mà lại không hề tham gia NCKH. Một GV giỏi không chỉ truyền thụ kiến thức mà đồng thời còn giúp SV phát triển những kỹ năng phát hiện vấn đề và kỹ năng phân tích và qua đó họ có thể phát triển suy nghĩ của riêng mình. Do đó, để đánh giá đầy đủ năng lực của GV trong lĩnh vực giảng dạy cần có những tiêu chí đánh giá bao quát toàn bộ những yêu cầu về hoạt động giảng dạy đối với mỗi GV. Các nội dung đánh giá năng lực giảng dạy bao gồm:
– Thành tích trong giảng dạy
+ Những ấn phẩm về giáo dục như tham gia viết sách, xây dựng bài giảng qua các băng Video, đĩa CD.
+ Trình bày báo cáo về lĩnh vực giáo dục: Trình bày báo cáo tại các hội nghị quốc tế, báo cáo viên cho các hội nghị.
+ Số các giải thưởng về giáo dục được nhận, kể cả trong và ngoài nước.
– Số lượng và chất lượng giảng dạy
+ Luôn có những sáng kiến đổi mới trong giảng dạy thể hiện ở việc áp dụng các kỹ năng giảng dạy mới, sử dụng các phương pháp kiếm tra đánh giá mới phù hợp với trình độ của SV. Tham gia tích cực vào các chương trình bồi dưỡng phát triển chuyên môn,
+ Tham gia vào việc xây dựng, phát triển các chương trình đào tạo, có ý thức tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chuyên gia để không ngừng nâng cao trình độ giảng dạy.
+ Tham gia vào việc đánh giá SV, đặc biệt là việc tham gia vào các hội đồng chấm khóa luận, luận văn.
– Hiệu quả trong giảng dạy
+ Thiết kế và trình bày bài giảng phù hợp với trình độ kiến thức của SV cho mỗi môn học.
+ Cung cấp cho SV kiến thức mới, cập nhật. Tạo điều kiện, giúp SV phát triển tính sáng tạo, tư duy phê phán, khả năng độc lập nghiên cứu và giải quyết vấn đề.
+ Tham gia tích cực vào các hoạt động liên quan đến giảng dạy như tư vấn cho SV trong việc lựa chọn môn học phù hợp, giúp SV xây dựng cho mình mục tiêu, kế hoạch học tập phù hợp.
+ Có khả năng giảng dạy được nhiều môn học ở các mức độ khác nhau.
– Tham gia vào đánh giá và phát triển chương trình đào tạo, tài liệu học tập
+ Đánh giá và phát triển chương trình đào tạo, chẳng hạn như đánh giá các môn học, phát triển và đổi mới nội dung các bài thực tập, thực hành bao gồm cả việc tham gia vào việc điều chỉnh nội dung môn học cho cập nhật.
+ Đánh giá và phát triển học liệu phục vụ cho giảng dạy, chẳng hạn như các công cụ dùng cho giảng dạy, tài liệu hướng dẫn học tập, hướng dẫn làm việc theo nhóm, đào tạo từ xa, sử dụng các công cụ hỗ trợ của máy tính trong giảng dạy.
+ Tự đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, như kỹ năng trình bày, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng sử dụng các phần mềm phục vụ cho giảng dạy.
3.3.3. Tiêu chí về năng lực nghiên cứu khoa học
NCKH được quan niệm là một chức năng đặc trưng của giáo dục đại học. Với chức năng này, các trường ĐH, CĐ không chỉ là trung tâm đào tạo mà đã thực sự trở thành trung tâm NCKH, sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ mới hiện đại. Do đó, để phù hợp với chức năng này, yêu cầu người GV phải tham gia các hoạt động NCKH và hoạt động này cần được đánh giá. Có rất nhiều cách để đánh giá năng lực NCKH cũng như các hoạt động sáng tạo của giảng viên. Dưới đây là nội dung đánh giá chất lượng hoạt động NCKH của giảng viên các trường ĐH, CĐ:
– Các công trình NCKH được công bố
+ Số lượng và chất lượng các ấn phẩm được xuất bản trong các tạp chí khoa học (có trong danh mục của Hội đồng Giáo sư Nhà nước) hoặc các hội nghị khoa học ở trong và ngoài nước liên quan đến các công trình nghiên cứu.
+ Việc phát triển và tìm tòi các kỹ năng và quy trình nghiên cứu mới.
+ Kết quả nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn, vào giảng dạy.
– Số lượng sách và tài liệu tham khảo được xuất bản/sử dụng
+ Số lượng các chương viết trong sách và hoặc đánh giá về các bài báo.
+ Báo cáo về hoạt các hoạt động học thuật/kỹ năng nghiên cứu.
– Việc tham gia vào các hoạt động NCKH
+ Số lượng các đề tài, dự án, các công trình NCKH tham gia.
+ Vai trò làm chủ nhiệm các đề tài/dự án NCKH.
+ Hướng dẫn SV làm NCKH.
– Việc tham gia các hội nghị/hội thảo.
+ Tham gia với vai trò là người thuyết trình cho các hội nghị/hội thảo trong và ngoài nước.
– Tham gia giảng dạy và NCKH với các trường đại học trong nước và nước ngoài.
– Các giải thưởng về khoa học.
3.4. Các tiêu chí kiểm định chất lượng đội ngũ giảng viên trong trường CĐSP
Căn cứ “Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường cao đẳng” (Quyết định số: 08/VBHN-BGDĐT của Bộ GD&ĐT ban hành ngày 04 tháng 3 năm 2014) các tiêu chí kiểm định chất lượng đội ngũ GV bao gồm:
Tiêu chí 5.1. CBQL, GV và NV thực hiện các nghĩa vụ và được đảm bảo các quyền theo quy định của Điều lệ trường CĐ.
Tiêu chí 5.2. Có chủ trương, kế hoạch và biện pháp tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho GV, CB và NV, tạo điều kiện cho họ tham gia các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ ở trong nước và ở ngoài nước; chú trọng đào tạo và phát triển các GV trẻ.
Tiêu chí 5.3. Có đủ số lượng GV để thực hiện chương trình đào tạo và NCKH; đạt được mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục nhằm giảm tỷ lệ trung bình SV / GV.
Tiêu chí 5.4. Đội ngũ GV đảm bảo trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo theo quy định. Giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo; đảm bảo cơ cấu chuyên môn và trình độ theo quy định; có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Tiêu chí 5.5. Đội ngũ GV được đảm bảo cân bằng về kinh nghiệm công tác chuyên môn và trẻ hoá của đội ngũ GV theo quy định.
Tiêu chí 5.7. Tổ chức đánh giá các hoạt động giảng dạy của GV; chú trọng việc triển khai đổi mới phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá kết quả học tập của người học.[3]
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình trường CĐSP Quảng Trị
Trường CĐSP Quảng Trị được thành lập theo quyết định số 198/TTg ngày 01/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Trường CĐSP Quảng Trị tiền thân là trường Trung cấp Sư phạm Vĩnh Linh được thành lập tháng 6 năm 1958. Lịch sử phát triển của nhà trường gắn liền với bề dày truyền thống của quê hương Quảng Trị anh hùng.
Sau gần 25 năm thành lập, nay Trường CĐSP Quảng Trị là một cơ sở đào tạo đa ngành đa cấp với Sứ mệnh và tầm nhìn là “Đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên và nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục – văn hoá – kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Trị, khu vực và quốc gia; giữ vững vị trí của trường trong hệ thống giáo dục đại học. Phấn đấu xây dựng và phát triển thành một trường đại học cộng đồng”.
Trong thời gian qua, Nhà trường đã đổi mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, phát huy năng lực nghiên cứu khoa học, tính chủ động, sáng tạo của giảng viên và sinh viên. Đội ngũ giảng viên của Nhà trường đã tăng mạnh cả về số lượng và chất lượng, Toàn trường hiện có 18 đơn vị, gồm: 06 phòng, 05 khoa, 02 tổ trực thuộc, 04 trung tâm và 01 trường phổ thông liên cấp (PTLC). Hiện nay tổng số cán bộ, viên chức và người lao động có 117 CBVC (biên chế: 102, HĐ NĐ 68: 04 người, HĐ hưởng lương từ NTSN: 05 người, hợp đồng dịch vụ bán trú: 06 người). Trường có đội ngũ giảng viên có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm: 10 tiến sĩ, 67 Thạc sĩ, 26 Đại học và 08 trình độ khác. Đội ngũ của nhà trường có thể đảm nhiệm tốt nhiệm vụ đào tạo chuyên nghiệp bậc cao đẳng, tham gia dạy thỉnh giảng đại học và sau đại học tại các trường liên kết trong đào tạo và NCKH, tham gia hướng dẫn và đánh giá luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ cho một số trường đại học và viện nghiên cứu, tham gia giảng dạy bậc phổ thông tại Trường PTLC.
4.2. Đánh giá thực trạng, nguyên nhân của chất lượng đội ngũ giảng viên tại trường CĐSP Quảng Trị
4.2.1. Những kết quả đạt được
Về cơ cấu đội ngũ giảng viên
Qua gần 25 năm thành lập đến nay trình độ tiến sĩ, thạc sĩ của đội ngũ GV chiếm tỷ lệ tương đối cao trong các bộ môn chuyên ngành. Từ năm 2010 nhiều CBQL, GV đã tiếp cận được nguồn ngân sách của các chương trình, dự án để tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Đến nay trình độ thạc sĩ, tiến sĩ của các đơn vị trong nhà trường khá cao được nêu trong bảng 4.1 và bảng 4.2 dưới đây:
Bảng 4.1. Thống kê trình độ đội ngũ giảng viên
TT | Đơn vị | Số lượng | Tiến sĩ | Thạc sĩ |
1 | Khoa Khoa học Tự nhiên – Xã hội | 03 | 0 | 03 |
2 | Khoa Giáo dục Tiểu học | 06 | 0 | 05 |
3 | Khoa Giáo dục Mầm non | 11 | 0 | 08 |
4 | Khoa CNTT | 04 | 0 | 04 |
5 | Khoa Âm nhạc – Mỹ thuật | 04 | 0 | 03 |
6 | Tổ Tâm lý – Anh văn | 08 | 02 | 06 |
7 | Tổ CT-GDTC-QPAN | 07 | 0 | 07 |
Bảng 4.2. Thống kê trình độ giảng viên thuộc BGH, Phòng, TT, trường PTLC
TT | Đơn vị | Số lượng | Tiến sĩ | Thạc sĩ |
1 | Ban Giám hiệu | 02 | 02 | 0 |
2 | Phòng TCCT – CTSV | 06 | 01 | 02 |
3 | Phòng Đào tạo | 06 | 0 | 04 |
4 | Phòng Hành chính Tổng hợp | 13 | 0 | 02 |
5 | Phòng Kế hoạch – Tài chính | 04 | 0 | 01 |
6 | Phòng TTPC-ĐBCL | 04 | 0 | 04 |
7 | Phòng QLNCKH&HTQT | 03 | 01 | 02 |
8 | Trung tâm HTHT-TV | 05 | 0 | 02 |
9 | Trung tâm CNTT – TT | 04 | 0 | 02 |
10 | Trung tâm NN-TH | 03 | 01 | 02 |
11 | Trung tâm bồi dưỡng LK- ĐT | 05 | 01 | 03 |
12 | Trường Phổ thông Liên cấp | 13 | 02 | 07 |
Về chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên
* Về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống: Đa số các GV chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; Đội ngũ GV luôn tiên phong và đi đầu trong mọi hoạt động của nhà trường, là những gương sáng cho sinh viên noi theo.
* Về năng lực chuyên môn: Để nâng cao chất lượng giáo dục, BGH đã chú trọng đến năng lực chuyên môn, năng lực giảng dạy, năng lực NCKH, năng lực sư phạm. Phần lớn đội ngũ GV đã thể hiện năng lực giảng dạy của mình qua việc áp dụng hợp lý các kỹ năng giảng dạy như kỹ năng giao tiếp, phân tích, tổng hợp, lập kế hoạch, NCKH, giáo dục. BGH cũng quan tâm nhiều việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Hoạt động nghiên cứu khoa học cũng đã được GV đầu tư đúng mức, quy trình xét duyệt đề cương, đề tài được thực hiện nghiêm túc, thực chất. Kết quả, năm học 2019-2020 có 26 đề tài và sản phẩm thay thế đề tài cấp cơ sở, trong đó có: 20 sản phẩm xếp loại xuất sắc và 06 đề tài xếp loại khá. Số lượng bài báo được đăng trên tạp chí quốc tế và trong nước có uy tín ngày một tăng. Có 3 giảng viên làm chủ nhiệm đề tài NCKH cấp nhà nước do quỹ Nafosted tài trợ. Nhiều giảng viên đã có các công trình nghiên cứu có chất lượng cao. Một số giảng viên của trường đã đảm nhận vai trò thành viên của đề tài cấp nhà nước, cấp bộ.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về năng lực giảng dạy và NCKH của đội ngũ GV tại trường, kết quả tổng hợp ở 2 bảng sau sẽ cho thấy mức độ đáp ứng với công việc dựa trên đánh giá của chính đội ngũ GV:
Bảng 4.3. Kết quả khảo sát mức độ đáp ứng về năng lực giảng dạy và NCKH

(Các tiêu chí khảo sát tương ứng với mục 3.3)
Về quản lý phát triển đội ngũ giảng viên
*Công tác nâng cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên
Đảng uỷ, BGH và các đoàn thể nhà trường luôn có kế hoạch tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, nhiệm vụ của nhà trường, trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Giáo dục nhận thức về nhiệm vụ đào tạo của nhà trường trong giai đoạn mới, nhà trường đang tìm hướng đi để phát triển phù hợp với bối cảnh chung của các trường CĐSP địa phương và nhu cầu phát triển ngành giáo dục của tỉnh nhà.
*Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ
Công tác phát triển đội ngũ được nhà trường quan tâm, tạo điều kiện cho GV đi học nâng cao trình độ. Tranh thủ các nguồn kinh phí từ các đề án để cho GV tham gia học tiến sĩ, thạc sĩ.
Nhiều GV tham gia học ở nước ngoài theo đề án 322 của Bộ GD&ĐT tại các nước Châu Âu. Bên cạnh đó nhà trường đã liên kết với các trường đại học vùng Đông bắc Thái Lan để hợp tác đào tạo và bồi dưỡng trình độ cho GV. Cụ thể có 04 GV tốt nghiệp tiến sĩ và 1 GV tốt nghiệp thạc sĩ tại các trường đại học của Thái Lan.
4.2.2. Hạn chế
– Hiện nay tinh thần học tập nâng cao trình độ của một số GV không cao. Do tác động khách quan từ cơ chế nhà trường chưa thể nâng lên thành trường đại học, nên một số GV có thái độ chủ quan bằng lòng với hiện tại, không muốn phấn đấu hơn nữa.
– Việc bố trí sử dụng GV sau quá trình được đào tạo chưa thật hợp lý với năng lực và trình độ chuyên môn của từng cá nhân. Một số CBQL các phòng khoa còn bộc yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý, thụ động còn phụ thuộc vào chỉ thị của Ban Lãnh đạo nhà trường chưa phát huy được tính độc lập, tiên phong nhằm thích ứng với cơ chế mới trong GD&ĐT.
– Một số GV thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn như chuẩn hóa ngân hàng đề thi, chuẩn bị phương tiện, thiết bị phục vụ thi, coi thi, chấm thi vẫn còn một số sai sót cần phải khắc phục. Một số ít GV chưa coi trọng công tác NCKH trong khi đó là một trong những nhiệm vụ bắt buộc của GV. Hoạt động NCKH và công nghệ chưa tương xứng với tiềm năng của trường. Số công trình công bố quốc tế còn ít. Trường không có nguồn thu từ hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ. Một số GV được điều chuyển sang giảng dạy tại trường PTLC chưa được tiếp cận và nắm rõ các kỹ năng, phương pháp và kỹ thuật dạy học hiện đại mới ở bậc phổ thông, đặc biệt là việc thực hiện chương phổ thông mới 2018 hiện nay.
– Nhà trường chưa thể chủ động vận dụng chính sách ưu đãi trong kêu gọi, thu hút nhân tài do còn ràng buộc trong cơ chế quản lý các cấp liên quan. Đồng thời do tình hình khó khăn của nhà trường nên các sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi có tâm lý không muốn về công tác tại các trường sư phạm địa phương. Ngoài ra một số GV có trình độ cao, chuyên môn tốt trong nhà trường do không có môi trường để thể hiện năng lực, khả năng nên đã xin chuyển công tác, hoặc có tư tưởng đứng núi này trông núi nọ.
4.2.3. Nguyên nhân
*Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do sự thay đổi trình độ chuẩn của giáo viên phổ thông theo Luật Giáo dục năm 2019 nên chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo giáo viên tiểu học và THCS (nguồn tuyển sinh chính của trường CĐSP trước đây) bị cắt chuyển hẳn cho các trường đại học sư phạm.
Thứ hai, sinh viên sư phạm sau khi tốt nghiệp ra trường thường thất nghiệp hoặc khó xin được việc làm đúng chuyên ngành. Từ đó dẫn đến ngành sư phạm giảm sút sự hấp dẫn, học sinh lẫn phụ huynh không muốn cho con em mình theo ngành sư phạm. Số lượng thí sinh đăng ký thấp, dẫn đến các trường buộc phải phải hạ điểm chuẩn để đạt chỉ tiêu tuyển sinh.
Từ nguyên nhân đó dẫn đến hạn chế, một số người thiếu lạc quan cho là khó xác định lối ra; một số khác lại cho rằng trường CĐSP đang đứng giữa “ngã ba đường”, hoặc phát triển thành trường đại học đa ngành, trong đó có các khoa đào tạo giáo viên, hoặc thành phân hiệu, vệ tinh của trường đại học sư phạm, hoặc thậm chí giải tán, xóa sổ. Do đó một bộ phận giảng viên không yên tâm công tác từ đó không có chí tiến thủ, không nêu cao tinh thần học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, trình độ lý luận chính trị và rèn luyện phẩm chất năng lực.
*Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Nhà trường đã chú trọng trong công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ GV và có cơ chế khuyến khích, động viên trong việc học tập nâng cao trình độ của GV; tiếp cận các chương trình học bổng của Chính phủ và Quốc tế nhằm giới thiệu và tạo điều kiện tốt cho người học được tham gia. Tuy nhiên, với kết quả đạt được trên vẫn chưa đáp ứng tối đa nhu cầu đào tạo đội ngũ GV chất lượng theo mục tiêu của nhà trường và yêu cầu chung của Bộ GD&ĐT.
Thứ hai, Nhà trường có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV định kỳ từng năm học. Do đó, hàng năm số lượng GV đăng ký theo học các bậc học nâng cao trình độ thạc sỹ, tiến sỹ được thực hiện theo kế hoạch. Tuy nhiên, một số ngành nghề trình độ về đội ngũ GV còn chưa đáp ứng theo yêu cầu đào tạo chung của ngành.
Thứ ba, Nhà trường chưa thể chủ động vận dụng chính sách ưu đãi trong kêu gọi, thu hút nhân tài do còn ràng buộc trong cơ chế quản lý các cấp liên quan. Mặc dù đã cố gắng khai thác triệt để những nguồn lực và vật lực hiện có của nhà trường, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nhu cầu học tập của người học và yêu đổi mới, hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trong đào tạo bậc học CĐ, ĐH hiện nay.
4.3. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đảm bảo tiêu chí của kiểm định chất lượng giáo dục tại trường CĐSP Quảng Trị
Nhằm xây dựng đội ngũ GV đạt chất lượng cao, có cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo tiêu chí của kiểm định chất lượng giáo dục, phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành giáo dục nói chung và trường CĐSP nói riêng, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức cho đội ngũ GV.
Giáo dục nâng cao nhận thức cho đội ngũ GV, đội ngũ cán bộ cốt cán trong nhà trường về sự phát triển của nhà trường trong giai đoạn mới, chuẩn bị tinh thần, năng lực và hành động sẵn sàng thích ứng với những mô hình đào tạo mới trong nhà trường.
Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục một cách sâu rộng trong toàn trường về nhiệm vụ của GV, CBQL. Đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn để duy trì sự phát triển của nhà trường hoàn thành sứ mệnh của ngành giáo dục giao phó.
Tăng cường các hoạt động học tập chính trị một cách thiết thực, có hiệu quả. Nêu cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong nhiệm vụ phát triển nhà trường.
Thứ hai, thực hiện tốt công tác tuyển dụng, tuyển chọn GV, bổ nhiệm, miễn nhiệm CBQL và bố trí phù hợp với vị trí việc làm.
Xây dựng hình thức thi tuyển hoặc tuyển dụng phải được công khai về thể lệ, quy chế tiêu chuẩn, điều kiện dự tuyển, các nội dung kiểm tra cần được công bố rõ ràng, đầy đủ. Có chế độ, chính sách ưu tiên trong tuyển dụng đối với những người có học vị, học hàm đúng theo chuyên ngành đào tạo, thu hút nhiều nhân tài đáp ứng với nhu cầu đào tạo ngày càng nâng cao chất lượng.
Cần tăng cường công tác quản lý GV, thực hiện tốt việc đánh giá gắn với phân công, bố trí hợp lý đội ngũ GV. Đây là một nội dung quan trọng, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng, BGH nhà trường phải nghiên cứu quán triệt một cách sâu sắc để mỗi đảng viên, CBQL và GV nắm vững chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ; phải nắm vững mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc và các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt, đối với cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị để có đổi mới cách nghĩ, cách làm cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV nhằm đảm bảo tiêu chí của kiểm định giáo dục và đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của nhà trường trong giai đoạn mới.
Xây dựng kế hoạch chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV dựa trên cơ sở các tiêu chí kiểm định chất lượng đội ngũ: Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng trình độ cho đội ngũ GV là một nhiệm vụ cơ bản, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV. Đây là khâu then chốt để phát triển nhà trường thành trường đại học đa ngành.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV: Thường xuyên có kế hoạch chiến lược ngắn hạn và dài hạn về công tác đào tạo và bồi dưỡng trình độ cho đội ngũ GV về tất cả các lĩnh vực giáo dục đào tạo như chuyên môn nghiệp vụ, nghiệp vụ sư phạm, NCKH, …; Tạo nguồn kinh phí để động viên CBQL, GV đi học nâng cao trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Cần được tăng cường bồi dưỡng về kỹ năng, phương pháp dạy học hiện đại ở bậc học Phổ thông cho bộ phận GV được điều chuyển sang giảng dạy tại trường PTLC trực thuộc trường CĐSP thông thông qua nhiều hình thức như: Tập huấn, tổ chức hội thảo, Seminar về các chủ đề dạy và học ở bậc Phổ thông theo xu hướng đổi mới. Ngoài ra các GV này cần nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện thông qua việc nghiên cứu tài liệu, dự giờ, thực tế phổ thông, tham gia các chương trình tập huấn chương trình giáo dục phổ thông mới nhằm nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm để đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ mới.
Thứ tư, thực hiện tốt chính sách thu hút đối với người tài, có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với GV.
Việc thu hút và sử dụng người tài sẽ góp phần rút ngắn thời gian và kinh phí đào tạo bồi dưỡng. Nhà trường cần coi trọng công tác tổ chức nhân sự, chọn người tài với đầy đủ năng lực, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, nhân cách.
Xây dựng quy định để thu hút đội ngũ GV có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi tạo điều kiện để đội ngũ này về trường công tác. Có chế độ đãi ngộ nhằm động viên khuyến khích kịp thời những GV có trình độ cao, năng lực tốt để “giữ chân” họ công tác, cống hiến lâu dài cho nhà trường. Cụ thể như: Trả lương theo đúng quy định. Trả lương đặc thù theo đúng thời hạn, khuyến khích GV có thành tích trong giảng dạy. Hỗ trợ kinh phí cho GV khi tham gia nghiên cứu các đề tài, chuyên đề, viết bài cho tạp chí. Hỗ trợ cho GV dạy giỏi ở tỉnh xa về nhà ở, chi phí sinh hoạt nếu có vào đầu tháng. Hỗ trợ kinh phí nếu GV có giờ dạy thêm hoặc tăng ca. Thực hiện nghiêm túc việc trả lương và phụ cấp theo đúng thời hạn đảm bảo đời sống cho GV, tạo động lực để họ yên tâm với công việc giảng dạy tại trường
– Những biện pháp đề xuất trên đều mang tính hợp lý, nhằm khắc phục những tồn tại đối với công tác phát triển đội ngũ giảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các cấp học cho tỉnh nhà.
4. Kết luận và khuyến nghị
4.1. Kết luận
Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ GV của trường CĐSP Quảng Trị là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nhằm góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng với các tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục, phù hợp với sự phát triển lực lượng lao động trong các lĩnh vực khác nhau đời sống xã hội, cơ cấu ngành nghề đào tạo cũng được mở rộng, đòi hỏi nhà trường nhận thức rõ yêu cầu mở rộng quy mô đào tạo trong và ngoài sư phạm. Vừa bảo đảm yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm yêu cầu phát triển lâu dài của sự nghiệp GD&ĐT ở địa phương, đáp ứng nhu cầu lao động xã hội và hội nhập các nước trong khu vực. Để thực hiện những yêu cầu trên, cần có những biện pháp nâng cao trình độ, cho đội ngũ GV. Qua quá trình nghiên cứu và thực tiễn công tác tại trường CĐSP Quảng Trị, trên cơ sở tìm hiểu phân tích những vấn đề về lý luận, đánh giá thực trạng, tôi xin đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV và việc sử dụng CB, GV trong thời gian tới của nhà trường. Các giải pháp nêu trên cần được tiến hành đồng bộ nhằm bảo đảm cho việc thực hiện công tác quản lý cán bộ và nâng cao chất lượng của GV trong nhà trường, vừa thể hiện được mục đích của Nhà nước, vừa đáp ứng được yêu cầu khách quan của xã hội, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam trong thời kỳ mới.
4.2. Khuyến nghị
Để nâng cao chất lượng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của nhà trường, góp phần thực hiện các mục tiêu giáo dục, kinh tế xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương đồng thời đảm bảo với các tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục theo quy định của Bộ GD & ĐT tôi xin đề xuất một số khuyến nghị sau:
* Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
– Cần quan tâm đến chiến lược phát triển của các trường CĐSP địa phương và phê duyệt đề án thành lập trường Đại học Quảng Trị trên cơ sở nâng cấp từ trường CĐSP Quảng Trị theo hồ sơ đề nghị của nhà trường.
– Tiếp tục triển khai và tổ chức các chương trình đào tạo trong và ngoài nước nhằm nâng cao chất lượng cho GV khối các trường CĐ, ĐH nhằm tạo cơ hội cho GV các trường được học tập và tiếp cận những tri thức mới phục vụ nhu cầu đào tạo hiện nay.
* Đối với UBND Tỉnh Quảng Trị
– Cần quan tâm hơn nữa đến chiến lược phát triển của trường CĐSP Quảng Trị trong giai đoạn mới, đồng thời nghiên cứu tính khả thi của đề án thành lập trường Đại học Quảng Trị trên cơ sở nâng cấp từ trường CĐSP Quảng Trị theo hồ sơ đề án của nhà trường theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Quảng Trị lần thứ XV.
*Đối với trường CĐSP Quảng Trị
– Truyên truyền, phổ biến các tiêu chí kiểm định chất lượng đội ngũ GV trong “Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường cao đẳng” của Bộ GD&ĐT. Yêu cầu đội ngũ CBQL, GV cần nắm rõ và thực hiện nghiêm túc, đồng thời làm tiêu chuẩn để đánh giá, xếp loại CB, GV hàng năm.
– Nhà trường có cơ chế, chính sách nhằm thu hút nhân lực có chất lượng cao về công tác và giảng dạy tại trường, tạo điều kiện cho GV nhà trường được học tập nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị.
– Động viên cũng cố lòng tin của đội ngũ GV về chiến lược phát triển nhà trường trong giai đoạn mới, đoàn kết, đồng lòng đồng sức vượt qua mọi khó khăn trước mắt. Tiếp tục kiện toàn bộ máy và nhân sự của các đơn vị theo vị trí việc làm, thực hiện kế hoạch tinh giản biên chế đã được UBND tỉnh phê duyệt, phù hợp với thực tiễn của Trường. Nghiên cứu bố trí CB, GV theo định biên tại trường PTLC một cách phù hợp, đảm bảo nhân lực cho hoạt động của trường PTLC song song với quyền lợi và trách nhiệm của CB, GV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI. (2013). Nghị quyết số 29- NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. ngày 04/11/2013, Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2008). Quy định về đạo đức nhà giáo, kèm theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 16 tháng 4 năm 2008.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2014). Quyết định Ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường cao đẳng. Quyết định số Số: 08/VBHN-BGDĐT, ngày 04 tháng 3 năm 2014.
Đảng Cộng Sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng Sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng Sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII – Tập I. NXB Chính trị Quốc gia ST, Hà Nội.
Đảng Cộng Sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII – Tập II. NXB Chính trị Quốc gia ST, Hà Nội.
Phê, H. (2003). Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, tr.144.
Quốc hội. (2010). Luật Giáo dục, số 43/2019/QH14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019.
Quốc hội. (2010). Luật Viên chức, số 58/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010.
Theo Lê Đức Quảng (2021), Sách chuyên khảo “Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh tự chủ đại học: Lý luận và thực tiễn”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.